NỀN Y HỌC, Y TẾ VÀ VỆ SINH
Ở VIỆT-NAM TIỀN BÁN THẾ KỶ THỨ 20
Author: hntncttv
TỪ CÁI GỌI LÀ THÀNH LẬP QUỐC GIA KINH TỘC TẠI PHÁP…
DÂN TỘC KINH LÀ DÂN TỘC NÀO?
Tập đoàn Việt gian Cộng sản bán nước ngay trong sách sử và gần đây, tập đoàn Việt gian hủy bỏ thi môn lịch sử và dự định đổi tên môn học lịch sử là môn Công dân và Tổ Quốc để học sinh quên đi cội nguồn dân tộc, bắt các học sinh từ cấp 1 đến cấp 3 phải học tiếng Trung (Tàu Hán) để Hán hóa học sinh ngay từ khi còn nhỏ. Việt gian cộng sản còn tung ra cái gọi là cải tiến chữ Việt của Bùi Hiền một du học sinh và là đảng viên đảng CS Trung Quốc để xóa bỏ chữ Quốc Ngữ, triệt tiêu văn hóa của dân tộc để Hán hóa dân ta. Đặc biệt mới đây dư luận xôn xao về tay sai của đế quốc mới Trung Cộng tung tiền ra mua đất thành lập một hình thức “Đặc Khu Tự trị” ngay trong lòng nước Pháp cùng với sự thành lập một quốc gia Kinh tộc để trở về đất mẹ Trung Quốc. Đây là kế hoạch hết sức tinh vi xảo quyệt để thực hiện giấc mộng thế kỷ của Trung Quốc. Vậy Kinh tộc hay dân tộc Kinh là dân tộc nào mà mỗi người Việt Nam chúng ta ở miền Bắc thì sau hiệp định Genève 1954 và miền Nam sau khi cộng sản xâm chiếm 1975 đã bắt chúng ta kê khai lý lịch 3 đời phải ghi là dân tộc Kinh mà trước đó, chúng ta chỉ ghi là quốc tịch Việt Nam, người Việt Nam…
Tầm nguyên ngữ nghĩa của chữ Kinh chúng ta thấy trong cổ sử Trung Quốc đời Thương có chép rằng “Vua Cao Tông đời Ân đem quân đánh nước Quỷ Phương, đóng quân ở Kinh”. Kết quả của các công trình khảo cổ với những di chỉ nền văn hóa thời cổ đại đã phục hồi sự thật lịch sử là lịch sử Trung Hoa thời cổ đại là lịch sử của đại tộc Việt, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ cũng đã chứng minh Hoa là Hạ là Việt là dịch là nhật… Lịch sử Trung Quốc chỉ bắt đầu từ thời Thương đánh chiếm tiêu diệt nhà Hạ của tộc Việt năm 1766 TDL.
Năm 2005, sau khi nghiên cứu Văn giáp cốt học giả người Đức đã vẽ bản đồ lãnh thổ Thương bao quanh là các nước Việt. Phía Tây nước Thương (TQ) là nước Guifang (Quy Phương) ở Thiểm Tây, Nước Laiyi (Lai Di) ở phía Đông, nước Yufang ở phía Nam giáp với Thương, nước Yifang ở Đông Nam và nước Gui ở Hồ Bắc lưu vực phía Bắc sông Dương Tử. Học giả Chang ( Chang Kwung Chih Trương Quang Trực (1931-2001), gốc Đài Loan, gs khảo cổ tại Yale, Harvard Hoa Kỳ dẫn Văn giáp cốt đời Thương-Ân, Vũ Đinh vua thứ 22 đời Thương (12501192 TDL) đã 2 lần nhắc đến nước Việt (Yufang). Trúc Thư viết “Năm 32, vua Cao Tôn đánh nước Quỷ Phương, đóng quân ở Kinh…”. Đất Kinh sau này là nước Sở chính là cương giới của 1 nước Việt xưa.
Theo Địa phương chí Du lịch của tỉnh Vũ Hán thì di chỉ Bàn Long Thành (Thành Rồng nằm) nay thuộc Vũ Hán Hồ Bắc trước là kinh đô của nước Phương mà sách sử Trung Quốc ghi là nước Quỷ (Gui). Sau khi xâm chiếm các nước trong cộng đồng Bách Việt ở lãnh thổ Trung Quốc bây giờ, Tàu Hán xưa gọi người Việt ở vùng Kinh Sở là dân tộc Kinh trong cộng đồng dân tộc Hán. Kinh là cây gai, cây Đay để làm bao bố, Sở là cây Kinh đực nên Hùng Dịch lấy tên Sở để đặt tên là nước Sở. Tương truyền đất Kinh Sở có rặng núi Kinh trong đó có núi Việt nên còn gọi là đất Kinh Việt chuyên trồng loại cây này…
Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia do nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ đạo viết: “Người Kinh, hay dân tộc Kinh (chữ Hán 京族, bính âm: jīngzú, Hán-Việt:Kinh tộc) là một trong số 56 dân tộc được công nhận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc). Người Việt hay người Kinh là một dân tộc hình thành tại khu vực địa lý mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Đây là dân tộc chính, chiếm khoảng 86,2% dân số Việt Nam và được gọi chính thức là dân tộc Kinh để phân biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ chính sử dụng là tiếng Việt theo nhóm Việt-Mường. Người Kinh sinh sống trên khắp toàn thể nước Việt Nam và một số nước khác nhưng đông nhất vẫn là các vùng đồng bằng và thành thị trong nước. Còn nếu tính cả hơn 4 triệu người Việt hải ngoại thì họ định cư ở Hoa Kỳ là đông nhất hơn 1 triệu người”.[4]
Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia cũng viết về Kinh tộc Tam đảo như sau: “Hầu hết cư dân người Kinh ở khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Ðầu và Sơn Tâm) cũng như một vài nơi khác ở Quảng Tây (chủ yếu tập trung tại Đông Hưng) đều có chung nguồn gốc là người Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam) cách đây khoảng 500 năm. Theo điều tra dân số tại Trung Quốc vào năm 2000, dân số người Kinh riêng tại khu vực nói trên là khoảng hơn 18.000 người …”.
TẠI SAO NHÀ NƯỚC VNDCCH DO HỒ CHÍ MINH LÃNH ĐẠO LẠI BẮT BUỘC NGƯỜI VIỆT NAM CHÚNG TA PHẢI GHI TRONG SƠ YẾU LÝ LỊCH LÀ DÂN TỘC KINH?
Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã chính thức không cho người dân ghi là dân tộc Việt mà bắt phải ghi là dân tộc Kinh là một dân tộc thiểu số của Trung Quốc trong các giấy tờ, hộ khẩu, đơn từ.
Theo thống kê của nhà nước CHXHCNVN thì dân số Việt Nam gồm 54 dân tộc trong đó dân tộc Kinh là đông nhất 55.900.244 người, kế tiếp là dân tộc Tày 1.190.342 người, dân tộc Thái 1.040.549 người và dân tộc Ơđu ít nhất chỉ còn 32 người. Đây là một chủ trương phản dân tộc vì trong lịch sử chúng ta là dân tộc Việt từ thời lập quốc cho tới ngày nay và không thể nào lại có một dân tộc trong một dân tộc được. Sách sử Tàu Hán cũng không ghi tên nước Việt dù vua triều Ân là Vũ Đinh có nhắc tới tên nước Việt nhưng các sử gia Tàu Hán vẫn viết là Yu, Yufang, Guifang, Gui và An Nam… mãi tới năm 1804, khi vua Gia Long sai Lê Quang Định đi sứ sang triều Thanh xin đặt tên nước là Nam Việt thì vua Thanh sợ nhắc tới Nam Việt bất lợi nên đổi lại là Việt Nam… Tên nước, quốc hiệu Việt Nam mới bắt đầu từ đó…
Theo truyền thuyết khởi nguyên dân tộc cũng như truyền kỳ lịch sử dân gian, đối chiếu với các nguồn sách sử cổ được xác định bởi các luận chứng kết quả khoa học thuyết phục thì chúng ta có nhiều chi tộc Việt trong cộng đồng Bách Việt của chúng ta. Trong đó chi Lạc Việt là đông nhất55.900.244 người, kế tiếp là đồng bào Tày 1.190.342 người, đồng bào Thái 1.040.549 người và chi ít nhất chỉ còn 32 người mà chúng ta gọi là đồng bào thiểu số là những chi tộc Việt như đồng bào Mường, Thái, Nùng, Dao, Thổ, Hmong, Giarai, Kaho trong đại chủng Bách Việt. Hầu hết các đồng bào thiểu số của chúng ta còn ở lại cư ngụ ở Đông Bắc và miền Nam lãnh thổ Trung Quốc bây giờ nên kết quả phân tích cấu trúc mã di truyền chứng minh rằng hơn một nửa dân số gọi là người Trung Quốc là người Việt cổ có cùng DNA với chúng ta và hoàn toàn khác biệt với Tàu Hán Trung Quốc. Thực tế lịch sử cho chúng ta biết rằng còn rất nhiều dòng họ Việt còn sống bên Trung Quốc bây giờ, tuy gọi là người TQ nhưng đồng bào Việt của chúng ta vẫn giữ nguyên bản sắc văn hóa truyền thống Việt.
Thời Việt Nam Cộng Hòa chúng ta là người Việt nhưng gọi là đồng bào Kinh là người ở miền đồng bằng và đồng bào Thượng là đồng bào thiểu số ở thượng du, cao nguyên để có chủ trương chính sách nhằm nâng đỡ đồng bào thiểu số của chúng ta mà thôi. Nền đệ nhị Cộng Hòa đã ban hành Quy chế Riêng Biệt để tạo điều kiện nâng đỡ cho Đồng bào Thiểu số ở VN…
BÀI HỌC MÁU VÀ NƯỚC MẮT CỦA LỊCH SỬ…
Bài học máu và nước mắt cho chúng ta thấy rằng trong suốt trường kỳ lịch sử đế quốc Tàu Hán xưa và đế quốc mới Trung Cộng ngày nay là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt chúng ta. Chúng đã xua quân xâm lược nước ta 26 lần và 9 lần thống trị nước ta trong gần 1000 năm. Tàu Hán không từ một thủ đoạn quỷ quyệt nào để cấy người, đưa tay sai vào guồng máy lãnh đạo cùng với kế sách trường kỳ xâm thực văn hóa nhằm xóa bỏ chữ viết, triệt tiêu văn hóa để Hán hóa dân tộc ta…. Trong lịch sử Việt, người anh hùng dân tộc Triệu Vũ Đế, người khai mở quốc gia Nam Việt sánh ngang cùng Hán triều phương Bắc khiến Hán văn Đế phải giao trả toàn bộ vùng Lĩnh Nam để xin được thông hiếu như xưa. Thế nhưng với bản chất thâm độc quỷ quyệt, Tàu Hán đã thực hiện quỷ kế để cấy gene Hán vào dòng máu Việt hầu thống trị dân ta như sau: “Khi Triệu Vũ Đế mất, Triệu Văn Vương huý là Hồ là con của Trọng Thủy, cháu đích tôn của Triệu Vũ Đế lên thay thì Nam Việt đã suy yếu. Vua Hán sai Trang Trợ sang Nam Việt chiêu dụ Triệu Văn Vương vào chầu. Triệu Văn Vương sai Thái tử Anh Tề sang làm con tin và cáo bệnh tìm cớ thoái thác. Thất bại trong âm mưu chiêu dụ Văn vương vào chầu, Hán triều cho thực hiện một ý đồ thâm độc tinh vi và xảo quyệt hơn. Thật vậy, trong thời gian Anh Tề ở Trường An, Hán triều đã tạo điều kiện để dàn xếp mối mai một cuộc hôn nhân dị chủng với Cù Thị người Hán để khi người con sinh ra sẽ có dòng máu Hán trong người. Không kể rất có thể con của Ai Vương với Cù Thị chính là con của Cù Thị và An Quốc Thiếu Quý…Năm Mậu Thìn 113 TDL, Triệu Minh Vương mất, con là Thái Tử Anh Tề lên ngôi nối ngôi lấy hiệu là Triệu Ai Vương. Vừa lên ngôi, Ai Vương tôn mẹ (người Hán) là Cù Thị lên làm Thái hậu. Hán triều vội cử An Quốc Thiếu Quý đi sứ đến Nam Việt. Thiếu Quý trước là người tình của Cù Thị được Hán triều cử sang Nam Việt với mục đích chiêu dụ Ai Vương đem Nam Việt sát nhập vào Hán theo chế độ nội thuộc nghĩa là nội chư hầu, cứ ba năm vào chầu một lần, bãi bỏ các cửa quan ải ngoài biên giới”.
Thừa tướng Lữ Gia biết rõ ý đồ thâm độc của Hán triều nên tìm cách can ngăn nhưng không được. Hán Đế nghe tin Lữ Gia không nghe theo lệnh Ai Vương và Thái Hậu thì thế cô, yếu đuối nên không thể chế ngự được nên sai Hàn Thiên Thu và Cù Lạc, em trai của Thái hậu đem hai ngàn quân tiến vào cảnh vực nước Việt. Nghe tin quân Hán tiến sang, Lữ Gia ra lệnh phòng thủ và thông cáo với người trong nước rằng: “Vua tuổi trẻ mà Thái hậu vốn người Hán lại cùng sứ Hán dâm loạn, muốn đem nước nhà nội thuộc Hán nên đem hết những bảo khí của Tiên vương vào dâng cho triều Hán để xiểm nịnh, lại đem nhiều kẻ đi theo đến Tràng An, bán cho người Hán làm tôi tớ, tự lấy cái lợi ích nhất thời mà không đoái tưởng đến xã tắc họ Triệu làm ý chí mưu tính muôn đời”.
Lữ Gia cùng người em và nhân dân cả nước nổi lên giết Cù Thị, Ai Vương và toàn bộ sứ đoàn Hán, đồng thời cho người sang thông báo cho Tần vương ở Thương Ngô và các quận ấp trong nước hay biết. Lữ Gia cùng triều thần lập người con trưởng của Triệu Minh Vương mà mẹ là người Việt là Vệ Dương hầu Kiến Đức lên làm vua.
Bài học lịch sử cấy gene Tàu Hán lại được Đế quốc mới Trung Cộng áp dụng âm mưu thâm độcHán hóa dân ta nên khi Nguyễn Tất Thành mạo danh Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Trung Quốc thì chính Chu Ân Lai thực hiện mưu đồ thâm độc quỷ quyệt của Tàu Hán nên đã đứng ra chủ hôn cho Nguyễn Ái Quốc lấy Tăng Tuyết Minh là một nữ cán bộ Cộng sản người Trung Quốc để sau này có com nối nghiệp lên lãnh đạo thì đã có nửa dòng máu Tàu trong người để Hán hóa dân tộc ta…
Khi Nguyễn Ái Quốc chết năm 1932 thì Cộng sản quốc tế và cs Trung Quốc lại đưa Hồ Quang nhập vai Hồ Chí Minh để Hán hóa dân tộc ta. Thật vậy, sau khi chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, thành lập nhà nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông chỉ thị Hồ Chí Minh thực hiện kế hoạch từng bước sát nhập Việt Nam vào Trung Quốc. Năm 1950, Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh xin viện trợ vũ khí và đề nghị Hồng quân Trung Cộng sang tham chiến. Hồ Chí Minh đã ký “Ghi nhớ Hợp tác Việt Trung” trong đó điều 3 quy định: “Hai bên thống nhất Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bộ phận của cộng hòa nhân dân Trung Hoa với quy chế của một liên bang theo mô hình các quốc gia nằm trong Liên Bang Xô Viết”. Hồ Chí Minh cam kết chấp nhận Việt Nam là 1 quân khu như quân khu Quảng Châu của Trung Quốc ngày 12-6-1953 tại Quảng Tây. Hồ Chí Minh đã ký thỏa thuận giao quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, sau đó là cả Việt Nam trở thành một bang của Trung cộng theo mô thức Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết sau khi chiếm được toàn cõi Việt Nam.
Biết tập đoàn CSVN đang lâm vào thế khốn cùng sau khi Liên Sô xụp đổ nên Đế quốc mới Trung Cộng buộc tập đoàn Việt gian CS gồm Phạm văn Đồng, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười… phải sang Thành Đô ký cam kết mật bán nước ngày 4-9-1990 và tập đoàn Việt gian bán nước do Việt gian Nguyễn Phú Trọng cầm đầu đang thực hiện những bước cuối cùng biến VN thành một khu tự trị năm 2020.
Ý ĐỒ THÂM ĐỘC QUỶ QUYỆT
CỦA TẬP ĐOÀN VIỆT GIAN CỘNG SẢN VÀ ĐẾ QUỐC MỚI TRUNG CỘNG.
Ngay sau khi hạ độc thủ giết Trần Đại Quang, Nguyễn Phú Trọng gồm thâu quyền lực Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch nước CHXHCNVN đã bày tỏ lòng trung thành với “Mẫu quốc” đã cho lưu hành đồng nhân dân tệ của TQ tại 6 tỉnh biên giới, cho Hải quân NDVN tập trận chung với Hải quân TQ, cử bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch sang tái cam kết “Cùng chung vận mạng”, nguyện làm tiền đồn bảo vệ đất mẹ TQ… Đồng thời ra quyết định kỷ luật TS Chu Hảo một trí thức yêu nước để trấn áp mọi mầm mống chống đối của trí thức văn nghệ sĩ…
Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử Việt, chúng ta thấy rằng Tàu Hán xưa và đế quốc mới Trung Cộng ngày nay không từ bỏ ý đồ xâm chiếm thống trị Hán hóa dân tộc Việt Nam chúng ta. Việc Hồ Chí Minh bắt người Việt Nam chúng ta phải khai là dân tộc Kinh đến việc ký kết mật ước Thành Đô và mới đây thành lập cái gọi là quốc gia Kinh tộc trên đất Pháp để chuẩn bị cho việc Nguyễn Phú Trọng biến Việt Nam thành một khu tự trị năm 2020 lấy tên là “KHU TỰ TRỊ DÂN TỘC KINH” của Trung Quốc để xỏa bỏ vĩnh viễn chữ VIỆT trong lịch sử!
Chúng ta đã và đang mất nước dần cho đến năm 2020 thì đất nước Việt Nam sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới và dân tộc Việt Nam sẽ tiêu vong. Toàn thể đồng bào Việt Nam trong nước phải đứng lên đáp lời sông núi, đồng loạt xuống đường trên cả nước để đấu tranh giải thể tập đoàn Việt gian Cộng sản, kẻ nội thù của dân tộc để toàn dân Việt Nam trong nước và Hải ngoại đoàn kết một lòng chống quân Tàu Cộng xâm lược.
Thời gian không cho phép chúng ta do dự chần chờ mà phải quyết tâm hành động, quyết tâm cứu dân cứu nước trước khi đã quá muộn… Chúng ta sẽ đắc tội với thế hệ con cháu muôn đời sau…
Hỡi toàn thể đồng bào Việt Nam
Tổ Quốc Việt Nam đang Lâm Nguy
Sơn Hà Nguy Biến…
Chín mươi triệu đồng bào Việt Nam khốn khổ đang chờ đợi chúng ta
Giờ Lịch sử đã điểm !!!
Toàn thể đồng bào Việt Nam chúng ta cùng đứng vùng lên đáp lời sông núi …
Đòi Dân chủ Tự do, Đòi cơm no áo ấm, Đòi quyền sống làm người, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ…
Hồn Thiêng Sông Núi,
Anh linh Anh hùng Liệt nữ sẽ phù trì cho chúng ta…
Tổ Quốc Việt Nam Trường Tồn
Dân Tộc Việt Nam Bất Diệt
Việt Nam Muôn Năm…
PHẠM TRẦN ANH
_______________________
VĂN HỌC VIỆT NAM THẬP NIÊN 1930
Ngô Thị Quý Linh
Trong giới trí thức thời thuộc Pháp, nhiều người đã đi tiên phong trong một số phạm vi khai triển tri thức. Những công trình trước tác của họ được xem như là những tác phẩm quốc-ngữ đầu tiên trong những thể loại văn học như lịch sử (Việt-Nam Sử-lược của Trần Trọng Kim), triết học (Nho-giáo của Trần Trọng Kim), văn hoá (Việt-Nam Văn-hóa Sử-cương của Đào Duy Anh), văn xuôi đoản thiên tiểu thuyết (Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học), văn xuôi truyện dài (Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách), văn thơ lãng mạn (Tương Phố), văn tả chân (Vũ Trọng Phụng), văn vần (Tình Già của Phan Khôi), giáo khoa (những sách văn học và văn học sử của Dương Quảng Hàm), phóng sự…
Nhờ phương tiện truyền thông mới là báo chí, lớp trí thức tân học đã ảnh hưởng đến một số đông người hơn ngày xưa khi các bản văn truyện còn phải chép tay rồi chuyền cho nhau đọc. Giới trí thức đã dùng báo, rồi về sau là sách, để truyền bá những tư tưởng của họ.
Về phương diện thi ca, thời kỳ bộc phát của “thơ mới” được xem như khởi đầu với bài thơ Tình Già của Phan Khôi (Phụ Nữ Tân Văn, 10 Mars 1932, Sài-gòn). Qua bài thơ này, Phan Khôi chỉ có ý định dùng một lối thơ nào có thể diễn tả được hết tư tưởng của mình, chứ chưa đặt ra vấn đề “thơ mới thơ cũ”. Ông dự định “đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần mà không bó buộc bởi niêm luật gì hết” (Hoài Thanh, Thi-nhân tiền-chiến).
Thời ấy, thơ Đường-luật là lối thơ khá thịnh hành đang bị giới trí thức trẻ như Trịnh Đình Rư chê: “lối thơ Đường-luật bó buộc người làm thơ phải theo cái khuôn phép tỉ mỉ, mất cả cái hứng thú tự do, cái ý tưởng dồi dào. Nếu ngày nay ta cứ sùng thượng cái thơ ấy mãi, thì làng văn Nôm ta sẽ chắc không có ngày đổi mới được vậy.” (Phụ Nữ TânVăn, số 33, 19 Décembre 1929)
Chẳng phải trên phương diện văn học không thôi mà bất cứ phương diện nào cũng thế, nếu chỉ có một khuôn mẫu để theo thì dễ đi đến trì trệ, bế tắc. Thi ca cũng như văn chương cần trải qua những sự thử thách để đem lại những sự sáng tạo mới.
Mùa thu năm 1932, Phong-Hóa khẳng định thái độ đối với “thơ mới”: “Thơ ta phải mới, mới văn-thể, mới ý-tưởng”. Từ dạo đó trở đi, Phong-Hóa đăng những bài thơ mới của nhiều thi sĩ như Lưu Trọng Lư, Tân Việt, Thế Lữ, Tứ Ly, Nhất Linh, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ, Huy Thông.
Giữa năm 1933, cô Nguyễn Thị Kiêm, một nữ sĩ có tài diễn thuyết, đã tán dương “thơ mới” trên diễn đàn Hội Khuyến-học Sài-Gòn.
Nhà thơ đầu tiên chú ý đến “thơ mới” một cách nhiệt tình là Lưu Trọng Lư, tác giả tập thơ Tiếng Thu. Thi sĩ không thể chịu đựng nổi sự bó buộc của các lối thơ cổ. Đối với Lưu Trọng Lư, cái tình cảm dồi dào của người nay không thể khép vào trong những niêm luật khắc khổ được. Thi sĩ đồng ý với Lanson là người đã nói rằng: “À des états d’âmes nouveaux, des genres nouveaux”. (Với những cái tâm trạng mới, phải có những văn thể mới, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, 1er Décembre 1934)
Lưu Trọng Lư công nhận “(…) cái điệu thơ thật có quan hệ đến bài thơ. Sống ở trong cuộc đời mới mẻ, lòng thấy vài cái tình cảm khác khác, mà muốn diễn tả ra cho hết, không thể không tìm đến những cái điệu rộng rãi, mềm mại hơn.” (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, 15 Décembre 1934) Vì thế, chính thi sĩ đã nhận thấy rằng phải đổi hình thức của thơ cho phù hợp với những cảm xúc của con người. “Hình thức của thơ phải mới, mới luôn, cho hợp với tâm hồn của ta, cái tâm hồn phiền phức của ta, trong khi tiếp xúc với hoàn cảnh mới, lại càng thêm phiền phức…” (Tiểu Thuyết Thứ Bảy, 19 Janvier 1935)
Nguyễn Vỹ đi xa hơn trong hình thức “thơ mới” khi ông chọn làm thơ theo kiểu “mười chân” và “mười hai chân”. Ông bị Thế Lữ chế giễu và chê ông “mang cái gông cùm mới của luật thơ Tây”, nhưng được Lê Tràng Kiều bênh vực rằng dù Nguyễn Vỹ đóng góp “một mảnh vôi nhỏ” trong việc xây đắp “tòa lầu Nghệ-Thuật” cũng là đáng quý rồi. Lê Tràng Kiều đã lấy bài Sương Rơi của Nguyễn Vỹ, với những câu thơ chỉ có hai chữ, diễn tả “nhạc điệu thiên nhiên của những vật vô hình và hữu hình ở trong vũ trụ lúc đêm khuya” để chứng tỏ công đóng góp của thi sĩ vào “tòa lầu Nghệ-Thuật”.
Năm 1934, Nguyễn Vỹ và Trương Tửu đề xướng một qui luật cho thơ mới, gọi là “Trường thơ Bạch Nga”. Trên diễn đàn hội quán Hội Khai-trí Tiến-đức bên bờ hồ Hoàn-kiếm, Trương Tửu đã diễn thuyết về thơ Bạch-nga trước một số khán giả rất đông, gồm cả phụ nữ, thanh niên, học sinh, văn nghệ sĩ. Sự hiện diện đông đảo của công chúng đủ cho thấy sự háo hức của họ đối với “thơ mới”.
Đến năm 1936, “thơ mới” đã chiếm được ưu thế trong làng thơ. Rất nhiều thi phẩm đã được sáng tác trong thời gian ba năm, từ năm 1933 đến năm 1936, của “cuộc cách mệnh về thi ca” theo nhận định của Lê Tràng Kiều. Nhiều bài “thơ mới” sau đó được phổ nhạc và trở thành phổ thông: Thơ Sầu Rụng và Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư, Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp, Cô Hái Mơ và Cô Lái Đò của Nguyễn Bính, v.v… “Thơ mới” từ đó đã được chấp nhận chẳng khác gì thơ cổ-điển, miễn là công chúng thấy hay!
Về văn chương, khi Phạm Quỳnh có ý kiến “Bàn về tiểu-thuyết” (Tiểu-thuyết là gì và phép làm tiểu-thuyết thế nào, Nam Phong, Janvier 1921), ý muốn của ông là giúp cho nghệ thuật viết tiểu thuyết được hay hơn. Ông định nghĩa tiểu thuyết, phân loại hình thức, chỉ dẫn cách kết cấu, so sánh cách hành văn của Trung-Hoa và Pháp để tìm cách phô diễn tư tưởng. Ông chia tiểu thuyết ra làm mấy loại như sau:
– “lý-luận tiểu-thuyết” (romans à thèses)
– “ tiểu-thuyết ngôn-tình” (romans passionnels)
– “tiểu-thuyết tả-thực” (romans de moeurs)
– “tiểu-thuyết truyền-kỳ” (romans d’aventures)
Về hình thức, có thể phân biệt: trường-thiên tiểu-thuyết, đoản-thiên tiểu-thuyết (nouvelle), nhàn[1]đàm tiểu-thuyết (conte).
Trong số những nhà văn đi tiên phong về tiểu thuyết, có Nguyễn Bá Học và Phạm Duy Tốn khởi đầu bằng những truyện ngắn đăng trên Nam Phong. Theo ý kiến của Vũ Ngọc Phan, tuy các truyện ngắn của hai ông hãy còn nhiều khuyết điểm, cả hai ông đã được Vũ Ngọc Phan (Nhà Văn Hiện Đại, 1941) xem như là những nhà viết truyện ngắn đầu tiên theo lối mới, thoát ra ngoài khuôn sáo cũ của văn chương Trung-Hoa thời xưa.
Năm 1925, quyển tiểu thuyết Quả Dưa Đỏ của Nguyễn Trọng Thuật được giải văn chương của Hội Khai-trí Tiến-Đức. Hai quyển tiểu thuyết khác cũng được chọn là Kim-Anh lệ-sử của Trọng Khiêm và Nho-phong của Nguyễn Tường Tam.
Được chú ý hơn cả trong thời kỳ này là quyển Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, xuất bản năm 1925. Với một cách kết cấu khéo léo hơn những truyện ngắn đầu tiên của các tác giả khác, Hoàng Ngọc Phách đã làm say mê giới trẻ đương thời vì đã diễn tả được tâm trạng bồng bột yêu đương của thanh niên thiếu nữ thời đó. Các nhà mô phạm, các bậc phụ huynh càng công kích Tố Tâm, càng làm cho nhiều người đọc truyện đó, học trò chuyền tay nhau đọc một cách say mê.
Những nhà viết tiểu thuyết đầu tiên đã phải đi tìm một hướng đi mới mẻ, đặc sắc mà lại thích hợp với thị hiếu của quần chúng, một thị hiếu luôn luôn thay đổi với thời đại. Để hiểu được thị hiếu của quần chúng, nhà văn sẽ phải sống hòa mình với dân chúng vì quan niệm về tiểu thuyết ngày nay đã khác trước rồi. “Tiểu thuyết phải gần đời, phải là đời với những lúc sướng lúc khổ, phải có những cái nhỏ nhen, tầm thường, cao thượng của đời, phải có những cái đáng thương, những cái buồn cười, những cái bực tức.” (Khái Hưng, Câu chuyện hằng tuần, Ngày Nay, số 180)
Thập niên 1930 thực sự là thời kỳ nở rộ của văn học Việt-Nam. Sau Hoàng Ngọc Phách, trong Nam có Hồ Biểu Chánh rất nổi tiếng với những tiểu thuyết có tính chất bình dân từ nhân vật đến lời văn. Truyện của ông đăng trong Phụ-nữ tân-văn và lôi cuốn được rất nhiều độc giả. Ở Bắc, về loại tiểu thuyết tả chân có Nguyễn Công Hoan, Vũ Bằng, Nguyễn Đình Lạp, Tô Hoài; về tiểu thuyết xã hội có Nguyên Hồng, Trương Tửu,Thạch Lam, Đỗ Đức Thu, Nguyễn Vỹ, v.v…; về tiểu thuyết phong tục có Khái Hưng, Trần Tiêu, Mạnh Phú Tư, Bùi Hiển, Thiết Can; về tiểu thuyết luận đề, có Nhất Linh, Hoàng Đạo; về tiểu thuyết luân lý có Lê Văn Trương; về tiểu thuyết truyền kỳ có Lan Khai, Đái Đức Tuấn; về tiểu thuyết phóng sự có Chu Thiên; về tiểu thuyết hoạt kê có Đồ Phồn; về tiểu thuyết trinh thám có Thế Lữ, Phạm Cao Củng; về truyện ký và lịch sử ký sự có Phan Trần Chúc, …
Ngoài những thể loại tiểu thuyết, còn có những thể loại văn chương mới đã được các nhà văn sử dụng: bút ký với Nguyễn Tuân, Phùng Tất Đắc; phóng sự với Vũ Đình Chí, Vũ Trọng Phụng,Trọng Lang, Ngô Tất Tố; phê bình với Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan; kịch với Vũ Đình Long, Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Khái Hưng; biên khảo có Phạm Quỳnh,Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Dư, Nguyễn Văn Ngọc, Đào Duy Anh, …
Trần Trọng Kim được xem là người đầu tiên soạn ra một cuốn sách sử Việt-nam bằng quốc-ngữ có giá trị, ở một thời kỳ mà “sử học nước ta vẫn còn khuyết điểm nhiều lắm: cái phương pháp khoa học dùng để tìm kiếm tài liệu đã chưa có, mà cả đến luật lệ nhứt định cho sử gia, cùng với triết học của lịch sử cũng thiếu nữa. (…) Tôi quyết đoán rằng sau ông Trần sẽ có nhiều sử gia hoàn toàn hơn ông. Song hiện nay tôi mới thấy bộ Việt-nam Sử-lược là hơn hết, chẳng những là một bộ sách giáo khoa về lịch sử có giá trị, mà còn là một bộ sử ký của khắp cả những ai muốn rõ lịch sử nước nhà.” (Thiếu Sơn, Phụ-nữ Tân[1]văn, số 97, 27 Aout 1931)
Mặc dù sau đó có một số sách sử giáo khoa, các sách sử Việt hãy còn nhiều khiếm khuyết. Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố đóng góp ý kiến về việc viết lịch sử Việt-Nam. Theo Ứng-Hòa, ngoài việc tìm và đọc sử liệu, người viết sử còn phải biết lọc lựa, sát hạch và phê phán. Trong khi làm việc, cần đối chiếu tài liệu, không nên tin ngay vào một quyển sách nào vì có những chi tiết hoặc truyện bịa đặt chứ chưa chắc đã là thực.
Nguyễn Văn Tố cho rằng nhà viết sử còn cần phải là một nhà khảo cổ, tra cứu trong những quyển du ký của những người ngoại quốc để tránh những tư tưởng bất công đối với một triều đại nào. Nhà viết sử ngày nay không chỉ chép lại những công việc của triều đình và vua chúa mà còn phải tìm hiểu cả đến những sự sinh hoạt trong toàn xã hội. Muốn viết một bộ sử ký hoàn bị, nhà viết sử cần khảo cứu thêm về “nhân-loại-học, cổ-điển-học, minh-văn-học, cổ-tục-học, v.v…”
Hoài Thanh chú ý đến quyển Việt-nam Văn-hóa Sử-cương của Đào Duy Anh khi quyển này vừa được xuất bản. Ông công nhận đây là quyển sách khảo cứu đầu tiên về văn hoá Việt-Nam. Sách không chú trọng về chính trị hưng suy của các triều vua như những sách sử khác mà cho thấy “sự sinh hoạt tinh thần và vật chất của toàn thể nhân dân trong mấy mươi thế kỷ, sự cố gắng vĩ đại của tổ tiên ta để giành lấy sống còn cho chủng tộc.”
Công chúng Việt-Nam thờ ơ đối với sách khảo cứu. Họ đọc sách để giải trí, để giết thì giờ. Sách này của Đào Duy Anh ra đời mà dư luận hết sức “lạnh lùng”. Hoài Thanh thấy phải giải thích cho công chúng hiểu rằng loại sách khảo cứu cần thiết cho sự xây dựng một cuộc đời độc lập cho dân tộc Việt[1]Nam.
“Tôi vẫn biết tiểu-thuyết và thi ca – những tiểu-thuyết và thi ca có giá-trị – là quan hệ. Nhưng vận[1]mệnh một dân-tộc không phải chỉ ở trong mấy quyển truyện và mấy bài thơ. Ta phải có những người chuyên tâm nghiên-cứu về tất cả các vấn-đề quan-hệ đến tương-lai, hiện-tại và quá-khứ của dân-tộc.” (Nhân xem quyển “Việt-nam Văn-hóa Sử-cương”, Tao Đàn, số 11, 16 Aout 1939)
Hoài Thanh là người chú trọng đến “ý-nghĩa và công-dụng của văn-chương” (Tao Đàn, số 7, 1er Juin 1939). Ông thấu hiểu sự cần thiết của văn chương trong đời sống con người và đòi hỏi nhà văn phải quên mình đi để sáng tạo.
“Văn-chương gây cho ta những tình-cảm ta không có, luyện những tình-cảm ta sẵn có, cuộc đời phù-phiếm và chật-hẹp của cá-nhân vì văn-chương mà trở nên thâm-trầm và rộng-rãi đến trăm nghìn lần. (…) Vậy thì văn-chương, cứ làm tròn nhiệm-vụ tự-nhiên của nó cũng đã có ích rồi. Nó trau dồi, tô-điểm cho đời người và trao cho cuộc đời một ý-nghĩa sâu, rộng. (…) Và văn-chương đâu có phải là một trò chơi phù-phiếm. Nếu ở đời này có một điều nghiêm-trọng vì luôn luôn đi bên cạnh những sự huyền-bí bao trùm người ta và vũ-trụ, điều ấy là văn-chương.”
Thời này, chưa có trường dạy viết văn. Mỗi nhà văn phải sửa chữa lấy bài vở của mình, nghĩa là tự phê bình văn thơ mình. Sau khi tác phẩm xuất hiện ngoài công chúng, có các nhà phê bình đóng vai “ngự-sử trên văn-đàn” giúp cho độc giả hiểu rõ tác giả và tác phẩm hơn đồng thời giúp cho tác giả một cơ hội nữa để sửa chữa những khuyết điểm trong việc sáng tác của mình. Quan trọng hơn nữa đối với nhà văn là những lời chỉ dẫn giúp cho nghệ thuật viết văn được hoàn toàn hơn.
Thạch Lam đã lược dịch “Lời khuyên bảo những người mới viết văn” của Ch. Beaudelaire và J. Prévost (Ngày Nay, số 215 và 216, 13 và 20 Juillet 1940). Trong khoảng hai năm 1939 và 1940, ông viết ra một “Vài ý nghĩ về văn chương” sau này được xuất bản trong một tập sách nhỏ lấy tựa là Theo Giòng.
Thạch Lam có những nhận xét tinh tế đối với nghệ thuật viết văn. Chán những cách tả cảnh sáo cũ và vô vị, ông nhắc nhà văn nhà thơ phải nhìn ra cái đẹp ở những nơi bất ngờ, khám phá ra những điều mới để cho người khác được biết và thưởng thức. Thay vì ca tụng hoa và liễu như các thi sĩ đời xưa, ông đã tìm thấy nhiều cái đẹp khác của vạn vật như cái mầm đầy nhựa, những búp lá mới non, cái vui sướng của mầm cây từ dưới đất nhô lên đón ánh mặt trời, cái rung động của ngàn lá trong làn gió mát.
Ông còn nhận thấy sự thành thật giúp cho truyện thêm hay. Những truyện luân lý xưa không làm chúng ta cảm động vì các nhân vật trong truyện hoàn toàn quá, cũng có nghĩa là giả tạo quá. Họ không có khuyết điểm, họ không có những sự yếu đuối và băn khoăn như con người thật. Họ thuộc về một thế giới riêng chứ không giống chúng ta. Chính cách xây dựng nhân vật như thế đã không cảm động được ta.
Một quyển sách truyện hay theo quan niệm xưa phải mang tính chất đạo đức nho giáo. Hễ quyển truyện nào không có yếu tố này tức nhiên bị chê bai. Đó cũng là một trong những lý do bất đồng về Truyện Kiều giữa Phạm Quỳnh và Ngô Đức Kế. Phạm Quỳnh khen Truyện Kiều là một áng văn hay theo quan niệm nghệ thuật, còn Ngô Đức Kế chê Truyện Kiều vì truyện không phải là một tấm gương luân lý cho người đời noi theo.
Trúc Hà nhận thấy Tố Tâm ra đời mà không được hoan nghênh công khai “Bởi vì Tố Tâm ra đời hơi sớm một chút, ra đời giữa cái lúc luân lý đạo đức cũ còn mạnh và cái quan niệm mỹ thuật của người mình lại không giống với người Tây phương.” (Phụ-nữ Tân-văn, 16 Janvier 1933)
Khuynh hướng tách rời luân lý ra khỏi phạm vi văn chương đã đưa đến cuộc tranh cãi “nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh.”
Những người chủ trương thuyết nghệ thuật vị nhân sinh cho rằng “văn-chương không được vô[1]tư-kỷ, phải bổ ích cho người đời, còn văn hay, lời đẹp là phần phụ thuộc.” (Thiều Quang Lê Quang-Lộc, Nghệ-thuật với văn-hóa, Tao Đàn, số 1, 1er Mars 1939)
Trong số những người phản đối chủ trương nghệ thuật vị nhân sinh, có người đã đưa lý lẽ rằng “văn-chương tự nó biến hóa theo xã hội” và “văn-chương phải được hoàn-toàn tự-do, phải thành-thực và phải phát sinh ở cảm-xúc.” (Thiều Quang)
Với Lan Khai, văn chương chỉ cần có một đối tượng duy nhất là “Người, con người trước Thời[1]gian và Vũ-trụ” (Bàn qua về nghệ-thuật, Tao Đàn, số 7, 1er Juin 1939). Sự phân loại trong văn chương thành ra cổ điển, lãng mạn, tả thực chỉ có tính cách hình thức vì mục đích của văn chương lúc nào cũng chỉ là dùng để “phô diễn con người, nạn-nhân vĩnh-viễn của xã-hội, của yếu-hèn, của đau-khổ và của sự chết. Diễn-tả cho đúng hệt con người, nghệ-thuật văn-chương đã đạt được mục-đích và do đấy, có thể trở nên thứ nghệ-thuật văn-chương muôn đời vậy.”
Tính chất thành thực là một yếu tố rất quan trọng trong sự sáng tác vì “không thành-thực với cảm-xúc, nhà văn chỉ có thể sản xuất ra một thứ văn-chương giả-dối” (Thiều Quang). Muốn diễn tả cho thành thực, nhà văn cần có một điều kiện: nhà văn phải được hoàn toàn tự do. Nếu họ bị bắt buộc phải làm việc trái với bản chất tự nhiên của họ, như vậy là “ép họ sản xuất ra một thứ văn-chương điêu trá.”
Giới trí thức thời đó, nhất là những người cầm bút, đều biết đến André Gide. Gide là nhà văn hào Pháp có cảm tình với chủ nghĩa cộng sản trong thập niên 1930. Tuy không gia nhập Association des Ecrivains et Artistes révolutionnaires, Gide vẫn tham dự vào Comité de patronnage của tờ Commune, tạp chí của Hội Văn Nghệ Sĩ Cách Mạng.
Gide được mời sang Mạc-tư-khoa (Moscow) vào tháng Sáu năm 1936 và được trọng đãi như thượng khách. Nga-xô lúc ấy được xem là “thiên đường của thợ thuyền” và là nơi qui tụ nhiều thanh niên ưu tú khắp thế giới. Cũng như nhiều người đương thời, Gide tin tưởng những chương trình cải cách xã hội của Nga-xô là giải pháp cho những sự rối loạn trong xã hội tư bản. Gide tưởng tượng Nga-xô như một cường quốc phát triển cả về kinh tế và xã hội, về giáo dục cũng như văn hóa.
Dời Mạc-tư-khoa trở về Pháp, Gide vội vàng cho xuất bản quyển Retour de l’URSS tháng Mười cùng năm, trong đó Gide nói đến sự nghèo nàn trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân Nga. Mặc dù được tiếp đón nồng nhiệt, Gide vẫn cảm thấy được cái không khí u uất bao bọc chung quanh: thay vì gặp những công dân tự do, Gide nhìn thấy những con người nô lệ đã bị tẩy não, lúc nào cũng sống trong áp chế và sợ hãi, và phải tôn sùng Staline. Gide thành thực nói lý do tại sao ông phải viết quyển sách này: “đối với tôi, có những việc rất hệ-trọng, hệ-trọng hơn cả tính-mệnh tôi, hơn cả nước Nga nữa, ấy là Nhân-loại, nhân-loại với số-mệnh, với văn-hóa của nó.” (Lưu Trọng Lư, “Con đường riêng của trí[1]thức, Để đáp các ông Phan văn-Hùm, Trần Huy-Liệu, Bùi Công-Trừng, Hải-Triều và Trương-Tửu”, Tao Đàn số 6, 16 Mai 1939)
Theo như Gide nhận xét, “nước Nga, với cái phương pháp giáo-hóa hiện hành đã chôn sâu cá-tính của người Công-Dân và nhất là đã cướp quyền tự do thiêng liêng của nhà văn sĩ.” (Thiều Quang)
Nhiều người đã cho rằng Gide bị kẻ thù địch với chủ nghĩa cộng sản mua chuộc. Họ chế giễu, bôi nhọ, và cho rằng Gide là “kẻ phản động”. Lưu Trọng Lư đã bào chữa cho Gide. Ông bảo không nên phê bình Gide trên lập trường chính trị mà nên đứng trên phương diện “người” để phán đoán về Gide.
Lưu Trọng Lư đã cho rằng sự “khác người” của Gide phải trả giá đắt quá. Giá mà Gide phải trả là bị đảng trừng phạt, mất thế lực đối với thanh niên đương thời, mất sự hâm mộ của quần chúng. Nhưng Gide đã theo tiếng gọi của lương tâm, thành thực nói lên những điều ông nghĩ: Gide đã đi một con đường riêng, con đường của một nhà trí thức.
Con đường này là con đường hướng đến tương lai, hướng đến tiến bộ và nhiều khi khác với khuynh hướng của quần chúng. Nhưng Gide không nao núng vì ông hiểu rõ giá trị của người cầm bút. “Cái giá trị chính thức của nhà văn là ở cái thái độ phản đối, ở cái tinh-thần bất mãn của họ. Bất cứ ở một xã hội nào, nhà văn bao giờ chẳng là kẻ bơi ngược giòng?”
Sự áp chế đối với nhà văn ở Nga thời đó đã từng xảy ra ở nước ta trong thời quân chủ chuyên chế. Ngô Tất Tố đã nhận xét về sự chuyên chế trong phạm vi văn chương đời trước mà ông gọi là Những xiềng xích của văn-chương ngày xưa (Tao Đàn số 2, 16 Mars 1939). Theo Ngô Tất Tố, trong sự chuyên chế Tây phương, người dân có thể bị chém, bị giết, bị giam cầm, bị cấm tự do ngôn luận tuỳ theo triều đại vua tàn bạo hay không. Sự chuyên chế ở phương Đông không những bao gồm cả những sự tàn nhẫn vô lý trên lại còn đặt ra một thể chế “rất mầu-nhiệm, tinh-vi, lưu truyền hết đời nọ sang đời kia, khiến cho kẻ bị áp chế mất hẳn đầu óc tự-do, không biết là chuyên-chế nữa.” Thể chế mà Ngô Tất Tố đã nhận định là “khôn-khéo nhất và đáng sợ nhất” chính là “những xiềng-xích về văn-chương.”
Không nho sinh nào vác lều chõng đi thi mà lại không biết đến “trường-qui”. Trường-qui ấn định cách thức viết chữ nho và viết các bài văn. Hễ phạm trường-qui thì dù có viết văn hay đến đâu cũng bị đánh hỏng.
Ngoài trường-qui, thí sinh còn phải nhớ đến việc kỵ huý tức là kiêng những chữ tên vua và hoàng gia: trọng huý là kiêng những chữ tên vua, khinh huý là kiêng những tên của thân mẫu hay bà cô, ông chú của vua. Khi dùng những chữ khinh huý, phải viết thiếu một nét, còn những chữ trọng huý hoàn toàn bị cấm dùng. Triều Nguyễn có khoảng năm mươi chữ kỵ huý. Nguời nào phạm khinh huý bị đóng gông phơi nắng ba ngày và bị cấm không được đi thi nữa. Người phạm tội trọng huý bị tù tội, thầy dạy như huấn đạo, giáo thụ, đốc học cũng bị phạt bổng, giáng cấp.
Ngoài ra còn hai qui luật “khiếm-đài” và “khiếm-trang” lại càng làm khó thí sinh hơn mặc dù “khiếm-trang” không có định lệ rõ ràng. Phạm vào hai qui luật này chứng tỏ sự khiếm nhã và thiếu kính trọng đối với nhà vua.
Ngô Tất Tố, tác giả quyển Lều Chõng (1941), đã từng đi thi khi khoa cử nho học hãy còn hiện hành. Ông hiểu rất rõ sự áp chế thường xuyên đối với người đi học. Khi ra đời, cầm đến bút, sự áp chế này đi theo nhà văn như lưỡi kiếm Damoclès treo trên đầu họ. Văn học ngày xưa chỉ có dăm ba tác phẩm với những đề tài rất giới hạn, một số tác phẩm vô danh không có tên tác giả vì người viết không muốn bị phiền luỵ tù tội. Đó là kết quả của những xiềng-xích trong văn chương.
“Người ta thường trách các nhà văn-học nước ta ngày xưa không phát-minh được một điều gì để lại cho đời sau. Nhưng ở cái nước mà văn-học bị nhiều xiềng-xích đến vậy, con nhà văn tránh được khỏi tội đã phúc lắm rồi, thì giờ đâu mà nghĩ đến chuyện phát-minh? Chúng ta chỉ khen các cụ kiên-nhẫn sống ở cái nước như thế, mà vẫn không làm cách-mệnh!”
Hoài Thanh cũng muốn tìm hiểu như Ngô Tất Tố lý do đưa đến sự nghèo nàn trong văn chương Việt-Nam (“Thành-thực và tự-do trong văn-chương”, Tao Đàn số 6, 16 Mai 1939). Ông so sánh văn học Pháp với văn học nước ta, nhận thấy văn học sử Pháp để tên của nhiều nhà văn, mỗi nhà văn có sắc thái riêng, khác nhau từ lời văn, ý văn cho đến qaun niệm văn chương. Ông tự hỏi vì sao văn học nước ta không được phong phú rực rỡ như thế?
Lỗi thứ nhất ông nghĩ là do chế độ chuyên chế. Ông lấy thí dụ nước Đức, trong thời kỳ Hitler thi hành chính sách độc tài, các nhà văn chỉ được viết những sách ca tụng đảng,việc trước thuật trong nước kém đi, sách bán ra không ai muốn xem. Ông nhận xét rằng “Bao giờ cũng vậy, hễ chính quyền can-thiệp vào văn-học là chỉ có hại cho văn-học.”
Nhìn lại quá trình văn học nước ta, ông đã thấy như sau:
“Chế-độ chuyên-chế ở nước ta cũng không thoát được cái thông-lệ ấy. Viết văn, ngâm thơ mà có thể khép vào tội yêu thư, yêu ngôn, rồi bị tù, bị chém, thì văn thơ cũng đến cạn nguồn! Sự chuyên-chế về chính-trị ở đây còn tệ hơn vì nó kèm theo nhiều thứ chuyên-chế khác nữa, trong đó tai hại nhất là phép[1]tắc làm văn, những thứ phép-tắc hẹp-hòi và phiền-phức làm sao!”
Sự phiền phức trong phép làm văn, những sự phạm trường-qui vì trọng huý, khinh huý đã được Ngô Tất Tố trình bày.
Ngoài sự chuyên chế về chính trị và trong văn chương, Hoài Thanh còn nhận thấy một yếu tố nữa quan trọng không kém ảnh hưởng đến sự phát triển văn học: dư luận xã hội. Xã hội Việt-Nam xưa rất khắt khe, không chấp nhận những gì ra ngoài khuôn khổ truyền thống: luân lý đạo đức phải nằm trong vòng nho-giáo, tín ngưỡng chỉ có đạo Phật, đạo Lão, đa số phong tục thì theo Trung-Hoa.
Với chủ nghĩa gia tộc, xã hội Việt-Nam không tôn trọng bản sắc của cá nhân. Có quá nhiều mối quan hệ chặt chẽ ràng buộc mọi người trong xã hội khiến đưa đến hiện tượng “Cá-nhân chìm lấp trong đoàn-thể như giọt nước trong làn sóng biển.”
Nhà văn phải sống trong sự áp chế của pháp luật, sự kiềm toả của dư luận, lại phải chịu sự thúc bách của việc sinh kế, cho nên làm nhà văn thời xưa thật là một việc rất khó khăn. Cũng vì bị ràng buộc trong cái khuôn nên văn chương nước Việt từ trước đến nay thường đi chung với sự giả dối, sự bịa đặt. Khuynh hướng của nhà văn ngày trước là viết thế nào cho hợp với ý muốn của xã hội chứ không cần đúng sự thật. Hoài Thanh hy vọng sẽ có một “dư-luận hết sức rộng-rãi với nhà-văn. Rộng-rãi không phải là hoan-nghênh vô-luận sách gì, những sách kiệt-tác cũng như những sách viết không thành câu. Rộng-rãi nghĩa là không bắt-buộc nhà-văn phải bó mình trong một đạo-đức, một tôn-giáo hay một đảng phái.”
Hoài Thanh mong rằng khi nhà văn không bị những sự kiềm chế, họ sẽ không phải viết một cách giả dối nữa. Họ sẽ viết một cách thành thực những điều cảm xúc, suy nghĩ của họ. Nhờ có tự do, họ sẽ thi thố mọi khả năng của họ mà không phải e dè điều gì. Chính khả năng của họ sẽ tạo nên giá trị cho tác phẩm của họ. “Nếu ta có tài thì tác-phẩm của ta sẽ sống, bằng không chẳng có sự bày đặt gì, chẳng có phép tắc gì thay được sự bất tài của ta.”
Để kết luận, Hoài Thanh khẳng định: “Thành-thực cũng như tự-do là một điều kiện cốt-yếu để gây nên nền văn-chương phong-phú.”
Cuối thập niên 1930, giới trí thức đã hiểu được sự cần thiết của tự-do. Hơn ai hết và hơn lúc nào hết, họ đã nhận ra những sự thiệt hại mà chính thể chuyên chế gây ra. Chỉ có tự-do mới cho người ta cơ hội phát triển toàn thể bản sắc của con người. Giới trí thức, nhất là những người cầm bút, sẽ là những người thiết tha hơn cả trong việc tranh đấu cho tự-do tư-tưởng và tự-do ngôn-luận. Đi cùng đường với tự[1]do, chỉ có thể là chủ-nghĩa cá-nhân.
Ngô Thị Quý Linh
- VĂN HỌC VIỆT NAM THẬP NIÊN 1930 – © Ngô Thị Quý Linh 2002
Dời, Rời hay Bỏ
Một câu hỏi được nêu ra khi nào dùng Dời, Rời hay Bỏ đã được tranh cãi khi một người viết: “Nguyên Nhân Người Việt Dời Việt Nam Đi Tỵ Nạn“
Một quan niệm cho rằng phải dùng “Nguyên Nhân Người Việt BỎ Việt Nam Đi Tỵ Nạn“. Vì chữ BỎ nói lên được hoàn cảnh và thực chất của cuộc ra đi ngày 30/4 /1075.
Một quan niệm khác cho rằng BỎ là dứt khoát không nghĩ ngày trở về. Nên RỜI hợp lý, hợp tình hơn vì người Việt luôn mong trở lại quê hương Việt Nam, ít nhất là trong tư tưởng của người viết câu đó.
Có lẽ lích sử đã được nhìn khác nhau ngay cả những người cùng một phía nói gỉ được nhìn từ hai phía QUỐC CỘNG.
Quý vị nghĩ sao?
Ít điều cần biết về nhà giáo dục Chu Văn An

Từ Mai Trần Huy Bích
- Trong ít hôm vừa qua, cộng đồng mạng người Việt huyên náo hơn mức bình thường.
Một YouTube được đưa ra, trong đó người thực hiện và trình bày đánh giá Chu Văn An, một nhà giáo dục được tôn kính từ thế kỷ 14 là “rất tệ,” là “tối,” rồi đưa tới một lời miệt thị rất nặng, “thằng cha đó là một thằng cà chớn.” Phản ứng lập tức đến từ rất nhiều phía, bộc lộ một niềm phẫn nộ tới cùng độ. Trong những phản đối ấy có một vài quá đáng, tuy lăng mạ mạnh mẽ nhưng chưa vạch được rõ người đưa ra lời phê phán đã sai ở những điểm nào. Giữa hàng trăm, hàng ngàn lời buộc tội, người viết những dòng này đọc được một lời bênh. Nhưng người bênh có một điểm sai, tưởng Chu Văn An làm đến chức Tể tướng và có quyền rất lớn trong triều Trần.
Để đạt được một nhận định vô tư và khách quan, bài này xin được duyệt lại sử sách Việt Nam các đời trước, xem tiền nhân đã chép về Chu Văn An ra sao, cùng tìm hiểu thêm xem trong thời của ông (qua bốn triều vua Trần Minh tông, Hiến tông, Dụ tông, Nghệ tông), Chu Văn An đã có vị trí như thế nào.
Để làm được việc ấy, chúng tôi xin chép nguyên văn hay tóm lược những đoạn viết về Chu Văn An trong:
– Hai bộ chính sử: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (từ sau xin gọi tắt là Toàn Thư, bộ sử của nhà Lê, do Ngô Sĩ Liên và một số sử quan sau ông biên soạn), và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (từ sau xin gọi tắt là Cương Mục, bộ sử của nhà Nguyễn, do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn).
– Hai bộ sử danh tiếng của học giả tư nhân: Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sĩ (1726-1780), một đại thần, cũng là một trí thức, sử gia rất có danh vọng cuối đời Lê; và Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (1883-1953), một học giả, sử gia, và nhà giáo dục có uy tín trong nửa đầu thế kỷ 20.
– Hai bộ truyện ký: Nam Ông Mộng Lục của Hồ Nguyên Trừng (1374-1446), con trưởng của Hồ Quý Ly, sống sau Chu Văn An không bao lâu; và Tang Thương Ngẫu Lục của Phạm Đình Hổ (1768-1839) và Nguyễn Án (1770-1815), hai danh sĩ sống vào cuối thế kỷ 18 qua đầu thế kỷ 19.
– Hai bộ sách nghiên cứu: Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, thiên “Nhân vật chí,” của Phan Huy Chú (1782-1840), một học giả uyên bác đầu triều Nguyễn; và Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam do Trần Văn Giáp (1902-1973), một học giả nghiêm túc cận đại làm chủ biên.
– Chúng tôi cũng xin ghi thêm một bài về Chu Văn An trong một cuốn sách giáo khoa dành cho học sinh Việt Nam bậc Tiểu học cho tới năm 1945. Đó là cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ đẳng (lớp Ba những năm sau), tác giả là bốn nhà giáo dục có uy tín trong thời kỳ Pháp thuộc: Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận.
Trước hết, ĐVSK Toàn Thư chép về Chu Văn An như sau:
“An (người Thanh Đàm ), tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng gần xa, học trò đầy cửa, thường có kẻ đỗ đại khoa, vào chính phủ… Kẻ nào xấu thì ông nghiêm khắc trách mắng, thậm chí la hét không cho vào… Minh tông mời ông làm Quốc tử giám Tư nghiệp, dạy Thái tử học. Dụ tông ham chơi bời, lười chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước, An khuyên can, [Dụ tông] không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ quyền thế được vua yêu. Người bấy giờ gọi là “Thất trảm sớ”. Sớ dâng lên nhưng không được trả lời, ông liền treo mũ về quê. Ông thích núi Chí Linh, bèn đến ở đấy…”
Chu Văn An được mời ra làm quan trong đời Trần Minh tông, giữ chức Quốc tử giám Tư nghiệp. Khi mất năm 1370 trong đời Trần Nghệ tông, ông vẫn ở chức ấy. Toàn Thư chép:
“Quốc tử giám Tư nghiệp Chu An mất, được truy tặng tước Văn Trinh công, cho tòng tự ở Văn miếu.” ¹
(Danh hiệu ông thực ra là Chu An, sau khi mất được ban tên thụy là Văn Trinh và tặng tước Văn Trinh công. Thời xưa thường tránh nêu tên húy, nên sử sách nhiều đời gọi ông là “Chu Văn Trinh công.” Dần dần ông được quen gọi là Chu Văn An).
Cương Mục chép như sau:
“Chu An tính cương trực, thanh cảnh, giữ tiết khắc khổ thanh tu, không cầu danh lợi hiển đạt. Ở nhà đọc sách, học nghiệp tinh thâm, thuần túy. Gần xa nghe tiếng, đến học rất đông. Học trò nhiều người thi đậu cao, làm quan to, như Phạm Sư Mạnh và Lê Quát đã làm đến Hành khiển, thời thường lui tới thăm hỏi, vẫn cứ thụp lạy ở bên giường thày, hễ được thày nói chuyện một chút thì lấy làm mừng lắm. Hễ kẻ nào làm điều lầm lỗi trái ý thì thày quở trách ráo riết, có khi quát mắng đuổi ra…Dưới triều Trần Minh tông, ông được vời làm Quốc tử Tư nghiệp, dạy Thái tử học. Đến Trần Dụ tông ham mê chơi bời, xao lãng chính sự, bọn quyền thần làm nhiều sự trái phép. Chu An can không nghe, bèn dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ có thế lực và được cưng chiều cả. Bấy giờ gọi là “Thất trảm sớ”. Sớ dâng lên, không được trả lời, Chu An liền treo trả mũ áo, trở về điền viên… Thiên hạ đều khen là người có khí tiết cao. Được tin Trần Nghệ tông lên làm vua, Chu An mừng lắm, chống gậy đến bái yết, xong lại xin về, rồi mất ở nhà. Nhà vua sai quan đến tế viếng, đặt tên thụy là Văn Trinh, được thờ phụ ở Văn Miếu.” ²
Tác giả chính của bộ Toàn Thư, sử gia Ngô Sĩ Liên, bình luận thêm như sau:
“Tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ… Ông thực đáng được coi là ông tổ của các nhà nho nước Việt ta mà thờ vào Văn Miếu.” ³
Xin được bổ túc: Khi Trần Minh tông trao cho ông việc dạy Thái tử, đó là Thái tử Trần Vượng, sau nối ngôi là vua Hiến tông. Nhưng Hiến tông chẳng may mất sớm khi mới 22 tuổi, người em lên ngôi là Dụ tông. Những năm đầu của triều Dụ tông chưa suy sút lắm vì Minh tông vẫn còn trong vai Thái Thượng hoàng. Chỉ sau khi vua Minh tông qua đời, Dụ tông ham vui chơi, bỏ bê chính sự, gần bọn tiểu nhân, triều chính mới suy. Trong phần sau sẽ xin trình bày rõ hơn về những điểm ấy.
Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sĩ chép:
“Quan Quốc tử Tư nghiệp là Chu Văn An mất, Vua sai quan dụ tế, cho tên thụy là Văn Trinh, được thờ ở Văn miếu theo hàng tiên hiền.”
Sau khi nhắc lại những chi tiết Toàn Thư và Cương Mục đã nói tới, “người thanh tĩnh, giữ tiết hạnh khắc khổ, không cầu lợi lộc cao sang, chỉ ở nhà đọc sách, có nhiều học trò làm nên,” và việc “vua Dụ tông ham chơi, nhiều quyền thần làm điều phạm pháp, ông dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần …” Ngô Thời Sĩ cung cấp thêm chi tiết sau:
“Khi bình xong nội nạn (chỉ việc Dương Nhật Lễ muốn dứt ngôi nhà Trần), ông mừng lắm, chống gậy lên yết mừng vua (Nghệ tông), rồi lại trở về núi.” ⁴
Trong Việt Nam Sử Lược, học giả Trần Trọng Kim cho biết rõ hơn về tình trạng gian thần lộng hành trong triều vua Dụ tông:
“Hiến tông không có con, Minh tông thượng hoàng lập người em tên là Hạo lên làm vua, tức là vua Dụ tông. Trong những năm Thiệu-phong, tức mười mấy năm đầu, tuy Dụ tông làm vua, nhưng quyền chính trị ở Minh tông Thượng hoàng quyết đoán, cho nên dẫu có mấy năm tai biến mất mùa nhưng việc chính trị còn có thứ tự. Từ năm Đại-trị nguyên niên (1358) trở đi, Thượng hoàng mất rồi, bọn cựu thần như ông Trương Hán Siêu, ông Nguyễn Trung Ngạn cũng mất cả, từ đó việc chính trị bỏ trễ nải. Kẻ gian thần mỗi ngày một đắc chí. Vua Dụ tông về sau cứ rượu chè chơi bời, xây cung điện, đào hồ đắp núi, rồi cho gọi những người nhà giàu vào trong điện để đánh bạc. Bắt các quan thi nhau uống rượu, ai uống được một trăm thăng thì thưởng cho hai trật. Chính-sự như thế, cho nên giặc cướp nổi lên như ong … Dân tình khổ sở. Cơ nghiệp nhà Trần bắt đầu suy từ đấy.”
⁵Toàn Thư cũng cho biết từ năm Đại Trị nguyên niên (1358) trở đi, vua Dụ tông “chơi bời quá độ, cơ nghiệp nhà Trần suy yếu.” Có lần vua ngự thuyền nhỏ đi chơi khuya, mãi canh ba mới về, tới khúc sông vắng, bị cướp mất ấn báu, gươm báu. “Vua tự biết mình không sống lâu, càng thả sức chơi bời.” ⁶
Sau khi dâng biểu can ngăn không hiệu quả, Chu Văn An đành dâng “Thất trảm sớ.” Tuy thế, những kẻ ông xin chém là những tên gian nịnh, đã kết thành bè đảng, lấy được lòng tin của vị vua bê tha và ham vui. Nếu không có uy tín thật cao, Chu Văn An đã bị họ sát hại. Có khi cũng vì lẽ ấy ông phải lui về núi ẩn cư. Nếu còn ở kinh đô, không khỏi bị họ coi là “cái gai trong mắt.”
Tập truyện ký đầu tiên chép về Chu Văn An là Nam Ông Mộng Lục của Hồ Nguyên Trừng. Chu Văn An trung với nhà Trần trong khi thân phụ Hồ Nguyên Trừng là Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Tuy thế, Hồ Nguyên Trừng vẫn viết về Chu Văn An với đầy trân trọng và thương tiếc:
“Chu An, hiệu Tiều Ẩn, người Thượng Phúc…Tính ông liêm khiết cương trực. Ở nhà thường thích đọc sách, học vấn tinh thuần, tiếng vọng xa gần. Học trò đầy cửa … An điềm đạm, ít ham muốn, không đi thi. Khoảng năm Chí Nguyên, Trần Minh vương bái mời làm Quốc tử Tư nghiệp, dạy Thế tử học …Minh vương mất, con là Dụ vương chơi bời, bỏ chính sự, quyền thần làm nhiều điều trái phép. An nhiều lần can ngăn không nghe, lại dâng sớ xin chém bảy tên gian thần đều hạng quyền thế, người đương thời gọi là “Thất trảm sớ.” Dâng lên không trả lời, An treo mũ từ quan, về với vườn ruộng. Sau Dụ vương mất, nước có loạn. Quần thần đón lập Nghệ vương. An nghe rất mừng, chống gậy yết kiến, rồi lại về làng, từ chối không nhận chức tước. Ban cho hiệu Văn Trinh tiên sinh, hậu lễ tiễn đưa. Chẳng bao lâu, An mất ở nhà. Nhân sĩ đô thành cảnh ngưỡng cao phong, không ai là không thở than thương tiếc.” ⁷
Trong Tang Thương Ngẫu Lục viết vào đầu thế kỷ 19, sau khi Chu Văn An tạ thế đã trên 400 năm, hai tác giả Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án cũng nhắc lại những chi tiết như trong các tài liệu trước. Hai ông thêm lời bình luận, “Sĩ phu đều kính ngưỡng như núi Thái sơn, sao Bắc đẩu,” và chép lại bài thơ ca tụng Chu Văn An của Băng Hồ tướng công Trần Nguyên Đán (tôn thất đời Trần, 1325 hay 1326 – 1390) mà câu đầu là:
Phủ miện hoàn khuê tâm dĩ hôi
(Đối với mũ áo của triều đình và ngọc hoàn khuê cầm tay [y phục của đại thần khi vào chầu thiên tử], lòng đã nguội lạnh như tro). ⁸
Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú là một tác phẩm đồ sộ, chia làm 10 thiên. Thiên thứ II, “Nhân vật chí” từ Quyển VI đến Quyển XII. Cuộc đời Chu Văn An được chép ở đầu Quyển XI, “Các nhà nho có đức nghiệp.”
Sau khi nhắc lại một số điều chúng ta đã biết qua các tài liệu trước, nhà bác học họ Phan viết thêm: “Khi Dụ tông mất, ngôi nhà Trần sắp tuyệt. Nghe tin quần thần đón lập Nghệ tông, ông rất mừng, chống gậy lên yết kiến. Rồi lại xin về làng, phong chức gì cũng từ chối không nhận. Vua lấy lễ tôn kính, sai quần thần đưa về. Không bao lâu ông chết ở nhà.” Phan Huy Chú bình luận, “Cái học của ông tinh túy chân chính… Đạo đức ông làm khuôn mẫu, đương thời ai cũng tôn trọng… Ai cũng khen phong độ của ông là cao thượng.” ⁹
Phan Huy Chú cũng trích dẫn một bài thơ của Trần Nguyên Đán (đã nhắc tới ở trên) làm sau khi Chu Văn An được vua Trần Minh tông “bái phong” làm Quốc tử Tư nghiệp. Xin được dẫn 3 câu đầu trong bài thơ 8 câu ấy:
Học hải hồi lan, tục tái thuần
Thượng tường sơn đẩu đắc tư nhân
Cùng kinh bác sử công phu đại …
(Xoay luồng sóng trong biển học để phong tục lại được thuần hậu
Nhà trường đã được bậc đạo đức như Thái sơn, Bắc đẩu đến dạy
Đọc hết kinh, xem rộng sử, công phu rất lớn …) ¹⁰
Học giả Trần Văn Giáp (thân phụ của các Gs. Trần Văn Dĩnh, Trần Văn Kiện, giáo sư tại Đại học Luật khoa Sàigòn trước năm 1975) là một nhà nghiên cứu uyên bác nhưng cẩn trọng, mỗi chữ, mỗi câu đều có cân nhắc. Trong cuốn Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam do ông chủ biên, phần về Chu Văn An chiếm gần hai trang với lời tóm lược như sau: “Ông là người tính nết ngay thẳng, trong sạch, có tài văn chương, uyên thâm về đạo lý nho học …Khi ông mất, được thờ tại Văn miếu, cùng hàng với các bậc hiền triết, và có đền thờ riêng nơi nhà ở ẩn của ông trên núi Phượng Hoàng.” Trong sách cũng nói qua về việc dựng đền, các câu đối trong đền, cùng liệt kê các tác phẩm của Chu Văn An. ¹¹
Những người Việt được đi học từ lớp tuổi 65, 66 trở lên đều đã học qua, hay ít nhất biết qua, bộ Quốc Văn Giáo Khoa Thư do các cụ Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận soạn. Bộ này được Nha Học Chính Đông Pháp xuất bản, và được dùng làm tài liệu giáo khoa chính thức trong các trường tiểu học cho tới năm 1945, làm tài liệu tham khảo ít nhất cho đến năm 1954. Bài về Chu Văn An là bài thứ 34 trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp Sơ đẳng. Nửa sau của bài ấy như sau:
“Vua nghe ông là bậc đạo đức mô phạm, triệu vào kinh cho làm quan để dạy Thái tử. Sau ông thấy chính sự trong triều suy đồi, bọn quyền thần lắm kẻ làm bậy, ông dâng sớ xin chém người gian nịnh. Vua không nghe lời. Ông bèn từ chức, không thiết gì đến công danh quyền lợi nữa.
Người trong nước ai cũng khen ông là bậc cao hiền. Khi ông mất, vua cho đem vào thờ trong Văn miếu, ngang hàng với các bậc tiên nho.” ¹²
Trong tất cả các tài liệu kể trên, suốt một dòng thời gian 600 năm, từ tác phẩm đầu tiên của Hồ Nguyên Trừng (sinh năm 1374) đến tác phẩm cuối dưới sự chủ biên của Trần Văn Giáp (mất năm 1973), Chu Văn An đều được trình bày là một nhân vật đáng kính ngưỡng với cốt cách thanh cao.
Trong Quyển V của Kiến Văn Tiểu Lục, bàn về tài năng, phẩm hạnh con người, nhà bác học Lê Quý Đôn viết, “Chu An dâng sớ xin chém bọn nịnh thần, làm rung động cả trong triều ngoài quận, rồi cáo quan trả mũ áo về nhà, không chịu tước lộc bó buộc, vua chúa phải tôn trọng, công khanh phải kính phục, đấy là bậc thanh cao nhất.” ¹³
Trong kho tàng văn học Việt Nam, thơ văn và câu đối ca tụng Chu Văn An rất nhiều. Để làm tiêu biểu, xin được dẫn một bài thơ của Đặng Minh Khiêm (1456? – 1522?) trong Việt Giám Vịnh Sử Tập:
Thất trảm chương thành tiện quải quan
Chí Linh chung lão hữu dư nhàn
Thanh tu khổ tiết cao thiên cổ
Sĩ vọng nham nham ngưỡng Thái san
(Thất trảm sớ dâng rồi, giải quan
Chí Linh cao ẩn giữa thanh nhàn
Sửa mình, khí tiết soi thiên cổ
Kẻ sĩ trông vời hướng Thái san).
Câu đối ở đình làng Thanh Liệt (quê của Chu Văn An):
Thất trảm sớ còn thơm, gương sử thẹn cho phường mại quốc
Lục kinh tro chửa nguội, bảng huỳnh treo mãi chốn danh hương.
Những chữ Hán trong cặp câu đối tại bàn thờ Chu Văn An ở Văn miếu Quốc tử giám giới thiệu phía trên:
Bác ư sử, cùng ư kinh, thánh đạo uyên nguyên khai hậu học
Hành dĩ lễ, tàng dĩ nghĩa, hiền nhân phong tiết thiệu tiên nho
Nghĩa:
Học rộng về sử, thấu nghĩa các kinh, những chỗ vực sâu, khai nguồn của đạo thánh mở cho người học sau
Ra làm việc đời theo chữ lễ (ngụ ý theo lệnh vua triệu khi ra làm quan), lui về ở ẩn theo chữ nghĩa (khi đời vô đạo thì lui về), phong tư khí tiết của bậc hiền nhân tiếp nối các bậc tiên nho.
Tóm lại, trong suốt dòng lịch sử dân tộc từ mấy trăm năm nay, Chu Văn An được vô cùng kính ngưỡng. Bên cạnh việc được thờ ở Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, ông còn đền thờ ở quê nhà, tại khu trường dạy học của ông ngày xưa, và đền thờ trên núi Phượng Sơn trong dãy núi Chí Linh, nơi ông về ẩn dật trong những năm cuối đời. Tên ông được đặt cho một trường Trung học quan trọng của Việt Nam, và trên nhiều đường phố ở Hà Nội, Sàigòn, thị xã Quảng Yên, thành phố Uông Bí …
Chu Văn An không thành công trong việc khu trừ bọn gian thần chung quanh vua Dụ tông. Chúng ta có thể nêu nhận xét: ông “không giỏi về chính trị.” Nếu muốn, có thể coi ông là “thường, xoàng, không có mưu lược chính trị.” Tuy nhiên, nói như thế cũng có điểm bất công: từ trước tới sau, ông chỉ tự coi là một nhà giáo dục, và căn bản cũng chỉ là một nhà giáo dục. Sau khi lui về ẩn tại Chí Linh, ông lại tiếp tục làm công việc dạy học. Gọi ông là “rất tệ,” là “tối” đã có phần quá đáng. Không cách nào giải thích, không thể nào biện minh được cho việc gọi ông là “thằng cha,” “thằng cà chớn” một cách ngạo ngược và vô lễ. Cộng đồng phẫn nộ và phản ứng một cách gay gắt cũng là lẽ đương nhiên.
Chúng ta không có tài liệu đầy đủ về quan chế đời Trần. Tất cả tài liệu về điển chương, chế độ trong hai triều Lý, Trần đã bị quân Minh tịch thu, thiêu hủy, hay đưa về Kim Lăng theo chỉ thị của Minh Thành tổ sau khi chiến thắng Hồ Quý Ly. Nhưng theo quan chế đời Lê, thì Quốc tử giám Tư nghiệp ở hàng Tòng Ngũ phẩm, dưới các chức Thượng thư (Tòng Nhị phẩm), Đô Ngự sử (Chánh Tam phẩm), Thị lang (Tòng Tam phẩm), Phó Đô Ngự sử (Chánh Tứ phẩm), Quốc tử giám Tế tửu (Tòng Tứ phẩm), và Thái y viện đại sứ (Chánh Ngũ phẩm) ¹⁴. Theo quan chế thời Nguyễn thì Quốc tử giám Tư nghiệp ở hàng Tòng Tứ phẩm ¹⁵. Đời Trần chắc không khác bao nhiêu: các học quan chỉ làm công việc dạy học, không có quyền về hành chánh, ngạch trật thường không cao. Ngoại trừ bản “Thất trảm sớ,” Chu Văn An không còn phương tiện chính thức nào khác để có thể nói lên ý hướng muốn trừ bọn gian thần.
Ở nước Tề đời Xuân Thu bên Trung Hoa, Quản Trọng làm Tướng quốc (Tể tướng) mà không trừng trị được ba kẻ tiểu nhân Thụ Điêu, Dịch Nha, Khai Phương, luôn luôn xu nịnh Tề Hoàn công. Ngạch trật và vị thế Chu Văn An thua Quản Trọng khá xa, số gian thần, tiểu nhân đông hơn, và Dụ tông là vị vua bê tha, không sáng suốt như Tề Hoàn công. Chúng ta cần thông cảm những chỗ khó của Chu Văn An, và không nên đòi hỏi quá đáng khi phê phán ông.
Khi dâng “Thất trảm sớ,” Chu Văn An sống trong đời vua Dụ tông. Thượng hoàng Minh tông, người có tình “tri ngộ” triệu ông ra làm quan, đã qua đời. Vua Hiến tông, vị Thái tử được ông giáo huấn, đã qua đời quá sớm khi mới 22 tuổi. Giữa ông và Dụ tông không có tương quan gì đặc biệt. Vị vua trẻ ham uống rượu, thích đánh bạc, thích đắp núi, đào hồ, xây cung điện, chắc chắn gần với bọn tiểu nhân khéo chiều chuộng và xu nịnh hơn.
Trở lại với YouTube trong đó Chu Văn An bị miệt thị, ta có thể thấy ngay người thực hiện YouTube ấy đã có một ngộ nhận quan trọng. Tưởng rằng Chu Văn An quyền chức cao, trong khi ông chỉ là một học quan ở Ngũ phẩm. Chê ông không biết bày mưu lập kế chia rẽ bọn gian thần, trong khi ông là một nhà giáo dục thẳng tính với tâm hồn cao khiết. Lầm lẫn ấy đưa tới một hậu quả đáng tiếc.
Với phẩm cách cao quý, Chu Văn An rất được kính ngưỡng, đã trở thành một biểu tượng về văn hóa của dân tộc từ bao đời. Buông lời hỗn xược đối với ông trong khi không nêu được lý do là một hành động dại dột, rất khó được dư luận tha thứ.
Phân tích nguyên động lực khiến người thực hiện YouTube có hành động như thế, một số người cho rằng đây chỉ là “một phần trong một kế hoạch lớn, nhằm soi mòn, triệt hạ những giá trị tinh thần của dân tộc Việt.” Đánh tan uy tín của vị “vạn thế sư” sẽ khiến dân Việt bị hoang mang, tan rã hết niềm tin, hầu “dễ bị đồng hóa.” Có người cho rằng Chu Văn An tiêu biểu tinh phần sĩ phu khảng khái của dân tộc Việt Nam. Đập tan uy tín của Chu Văn An là ý hướng của một nhóm cầm quyền độc tài, muốn dân Việt không ai là người khí khái nữa, sẽ dễ chịu khuất phục.
Người viết những dòng này chưa thấy vấn đề trầm trọng đến mức ấy. Cách hành xử của nhà giáo dục Chu Văn An quang minh chính đại, sáng rực rỡ như ánh mặt trời, khó ai có thể xuyên tạc. Dân tộc Trung Hoa có thành ngữ, “chó Đạo Chích sủa vua Nghiêu.” Uy tín của vua Nghiêu không tổn hại khi bị chó [của] Đạo Chích sủa.
Có người cho rằng đây là hành động của một người cao ngạo, kiêu căng, luôn luôn nghĩ rằng mình hơn đời, vậy cần phải “độc sáng,” khác đời. Nếu đúng thế, đây là một việc làm quá táo bạo, dựa trên một nhận thức thiếu chính xác. Việc làm ấy sẽ khiến mức tín nhiệm còn lại bị sụp đổ. Danh vọng, uy tín của một vĩ nhân như Chu Văn An bền vững đã trên 600 năm nay. Một người ở thời chúng ta, dù thông minh tới cỡ nào, làm sao lay đổ được?
Tượng Chu Văn An tại trường Trung học Chu Văn An Hà Nội
Người chụp: Quỳnh TrangXuất xứ: Trang mạng VNExpress - Từ Mai Trần Huy Bích
***
CHÚ THÍCH
1· Đại Việt Sử Ký Toàn Thư / Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích ; Hà Văn Tấn hiệu đính (Hà Nội : NXB Khoa Học Xã Hội, 1988), Tập II, trang 151-152.
2· Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục / dịch giả, Viện Sử Học (Hà Nội : NXB Giáo Dục, 1998). Ấn bản điện tử do Lê Bắc thực hiện, trang 293.
3· Toàn Thư (sđd), Tập II, trang 153.
4· Ngô Thời Sĩ. Việt Sử Tiêu Án / Bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu (San Jose, CA: Văn Sử, 1991), trang 252-253.
5· Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược (Sài Gòn : Trung Tâm Học Liệu, 1971), trang 173-174.
6· Toàn Thư (sđd), Tập II, trang 127, 144.
7· Hồ Nguyên Trừng. Nam Ông Mộng Lục / Trần Nghĩa dịch và chú thích (Hà Nội : NXB Văn Học, 2001), truyện thứ 7.
8· Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án. Tang Thương Ngẫu Lục / dịch giả, Đạm Nguyên (Sài Gòn : Bộ Giáo Dục, 1970), trang 109-110.
9· Phan Huy Chú. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí / Tổ Phiên Dịch Viện Sử Học Việt Nam phiên dịch và chú giải (Hà Nội : NXB Khoa Học Xã Hội, 1992), Tập 1, trang 364.
10· Phan Huy Chú (sđd), trang 365.
11· Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam / Trần Văn Giáp chủ biên (Hà Nội : NXB Văn Học, 2000), trang 174-175.
12· Quốc Văn Giáo Khoa Thư : Lớp Sơ Đẳng / Trần Trọng Kim … (Hà Nội : Nha Học Chánh Đông Pháp, 1935), trang 42.
13· Lê Quý Đôn. Kiến Văn Tiểu Lục (Hà Nội : NXB Văn Hóa Thông Tin, 2007), trang 298.
14· Phan Huy Chú. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (sđd), trang 451-452.
15· Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược (sđd), trang 189-192.
Tượng Chu Văn An trên bàn thờ tại Văn miếu – Quốc tử giám Hà Nội(Những chữ Hán trên đôi câu đối sẽ được giải thích ở cuối bài)
