Giáo sư Tiến sĩ Cao Văn Hở, Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Lịch Sử và Văn Hóa Việt Nam – Hoa Kỳ vừa vĩnh viễn giã từ Gia đình và thân hữu khắp nơi vào ngày 19 tháng 6 năm 2025 tại San Jose Hoa kỳ. Chúng tôi thành kính chia buồn cùng Bà Quả Phụ Tiến sĩ Cao Văn Hở, Khuê danh Bà Huỳnh Xuân Thanh và Tang Quyến. Nguyện cầu Hương Linh Giáo Sư Tiến Sĩ Cao Văn Hở sớm Siêu Thăng Tịnh Độ.
Diễn giả Phạm Trần Anh – Thuyết trình ngày 19 tháng 4 năm 2025
Kính Thưa toàn thể quý vị,
Trong lịch sử cận đại, dân tộc chúng ta đã phải hứng chịu 3 ngày Quốc Hận để lại một vết thương, nỗi căm hờn uất hận không gì hàn gắn được trong lòng dân tộc. Đó là cái gọi là cách mạng mùa Thu “Việt Minh Cướp chính quyền 19-8-1945”, ngày “Chia đôi đất nước” 20 tháng 7 năm 1954 và ngày 30 tháng tư, ngày “Cộng sản thống trị toàn dân tộc”.
Chúng ta cùng nhau dâng nén hương lòng tưởng niệm 50 năm ngày Quốc hận, tưởng nhớ gần 4 triệu người dân vô tội đồng bào hai miền Nam Bắc nạn nhân của Cộng Sản, dân quân cán chánh Việt Nam Cộng hòa hy sinh vì lý tưởng dân chủ tự do và cả những bộ đội cán binh nạn nhân của Cộng sản trong cuộc chiến bi thảm vừa qua. Nhân dịp này chúng ta cùng nhau nhìn lại lịch sử để phục hồi sự thật lịch sử với những tội ác chồng chất “Trời không tha, đất chẳng dung-Thần người đều căm hận” của tập đoàn Việt gian bán nước Cộng sản. Thưa quý vị, ngày hôm nay chúng ta cùng nhau “Tưởng Niệm Ngày Quốc Hận”, nhắc lại kỷ niệm thương đau sau 50 năm chúng ta tạm thời mất nước. Cách đậy 6 năm, ngày 30-2019 Thượng viện Tiểu bang California Hoa Kỳ vừa thông qua quyết nghị SCR 7 tưởng niệm 44 năm ngày cộng sản xâm chiếm miền Nam Việt Nam và quyết nghị tháng 4 năm 2019 là “Black April-Tưởng Niệm Tháng Tư Đen”.
Thưa quý vị, cho đến ngày nay, không chỉ giới trẻ Việt Nam mà ngay cả những người tham dự cuộc chiến vừa qua cũng không hiểu tại sao đất nước chúng ta phải chịu một cuộc chiến tương tàn “nồi da xáo thịt” hy sinh hàng triệu người dân vô tội ở cả hai miền Nam Bắc. Chính vì vậy chúng ta phải nhìn lại lịch sử, tìm hiểu bản chất của cuộc chiến Việt Nam để cùng nhau hướng tới tương lai của dân tộc. Bài nói chuyện hôm nay chúng tôi chia ra làm 3 phần:
CHẤM DỨT CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
CUỘC CHIẾN VIỆT NAM LÀ CUỘC CHIẾN Ý THỨC HỆ
Vấn đề đầu tiên phải đặt ra là Chúng ta phải hiểu rõ bản chất của cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến Việt Nam là có phải là cuộc chiến giành độc lập dân tộc như Cộng sản vẫn rêu rao tuyên truyền từ trước đến nay? Thưa quý vị, Lịch sử Việt ghi rõ là ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh thực dân Pháp. Ngày 11-3-1945, Cơ Mật Viện triều Nguyễn họp khẩn cấp và ra tuyên bố “Huỷ bỏ Hiệp ước 1884 và Khôi phục chủ quyền cuả Việt Nam”.[1] Như vậy, Việt Nam trên nguyên tắc đã chính thức độc lập kể từ ngày 11-3-1945 với chính phủ Trần Trọng Kim đầu tiên trong lịch sử. Ngày 19 tháng 8, Việt Minh Cộng sản cướp chính quyền thành lập nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945. Thế nhưng, chỉ mấy tháng sau khi đọc cái gọi là “Tuyên Ngôn Độc Lập” thì ngày 6 tháng 3 năm 1946, Hồ Chí Minh lại ký “Thỏa ước Sơ Bộ” với thực dân Pháp xin là một quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Pháp, cho phép quân đội Pháp ra miền Bắc thay thế quân đội Trung Hoa. Sau vài tháng việc cấu kết với thực dân Pháp bất thành, Cộng sản Việt Nam dưới danh nghĩa Việt Minh lại kêu gọi toàn dân kháng chiến.
Ngày 18 tháng 1 năm 1950, Trung Quốc công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và ngày 31 tháng 1 năm 1950, Liên Sô công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á.[2] Trước sự kiện nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đứng vào hàng ngũ Cộng sản, ngày 7-2-1950 Hoa Kỳ Anh và các nước trong thế giới tự do công nhận chính phủ Quốc gia Việt Nam do Đức Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo. Như vậy, cuộc chiến Việt Nam không còn là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc như Cộng sản rêu rao tuyên truyền mà cuộc chiến Việt Nam đã trở thành một cuộc chiến tranh ý thức hệ của thế giới tự do ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản. Nói một cách khác, cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến của Việt Nam Cộng Hòa miền Nam chống lại cuộc xâm lược của Cộng sản miền Bắc để bảo vệ thành quả của tự do.
2. AI LÀ KẺ GÂY RA CUỘC CHIẾN VIỆT NAM?
Vấn đề thứ hai đặt ra là Ai là kẻ gây chiến khiến hàng triệu người Việt đã bị hy sinh oan uổng, từ đó chúng ta thấy rằng “Ai là “Ngụy” và chế độ nào là phi nghĩa, chế độ nào là chính nghĩa quốc gia? Chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân của cuộc chiến và ai là kẻ gây ra cuộc chiến Việt Nam?.
Thực tế lịch sử chứng minh rằng Cộng Sản Việt Nam đã phản bội kháng chiến để thỏa hiệp với thực dân Pháp, ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia đôi đất nước trong lúc cao trào kháng chiến của toàn dân đang trên đà thắng lợi.[3] Sau này, chính tập đoàn Việt gian Cộng sản đã thú nhận rằng Liên Sô và nhất là Trung Quốc ép buộc phải ký hiệp định Genève. Trong khi đó, Ngoại trưởng Trần văn Đỗ của chính phủ Quốc gia Việt Nam đã khóc và tuyên bố “Chính phủ Quốc Gia Việt Nam phản đối việc ký kết hiệp định đình chiến trái với nguyện vọng độc lập và thống nhất của dân tộc Việt Nam”. Ngay khi vừa ký hiệp định, Cộng Sản Việt Nam đã chỉ thị cho 85 ngàn đảng viên chưa bị lộ rút vào hoạt động bí mật, chôn giấu hơn 1 vạn súng và nhiều điện đài. Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore.Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …” nên ngày 20-12-1960, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam do LS Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch được thành lập với chiêu bài “Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ …”.[4] Rõ ràng là tập đoàn Việt gian CS thi hành chỉ thị của quốc tế CS chủ trương chống “Đế quốc Mỹ” để xâm chiếm miền Nam trong khi chưa có sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam. Trước đây, chúng ta bị bộ máy tuyên truyền của Cộng sản lừa dối rằng lực lượng đồng minh Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Thái Lan và Đại Hàn đến Việt Nam để chống lại một nước nhỏ bé là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nhân dân miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, sau hơn 30 năm, chúng ta mới biết cả Liên Sô, Trung Cộng lẫn Bắc Triều Tiên đều tham chiến ở Việt Nam. Việt Nam trở thành chiến trường giữa 2 khối Cộng Sản và thế giới tự do.
Sự thật lịch sử đã chứng minh rằng cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa 2 phe Cộng sản và Thế giới Tự do. Chính Hồ Chí Minh, cán bộ của Cộng Sản quốc tế đã đưa dân tộc vào cuộc chiến tranh ý hệ, hy sinh xương máu của hàng triệu người dân lành vô tội để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản xuống toàn cõi Đông Dương. Sinh lực của dân tộc bị tiêu hao trầm trọng, hàng triệu người dân vô tội hy sinh, đất nước nghèo nàn, tan hoang đổ nát, lòng người ly tán hờn căm uất hận và cuối cùng đế quốc mới Trung Cộng dễ bề thống trị dân tộc Việt. Cái gọi là thống nhất đất nước chỉ là sự xâm lăng của bạo lực và hận thù khiến dân tộc Việt Nam ly tán, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do. Cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng đã “Thống nhất được đất nước” nhưng thực tế đã chứng minh rằng cái gọi là giải phóng miền Nam là một tội ác, đã để lại trong lòng dân tộc một sự phân ly ngăn cách không gì có thể hàn gắn được. Như vậy, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã gây ra cuộc chiến Nam Bắc tương tàn và chính là tội đồ của dân tộc.
3. CHIẾN TRƯỜNG VIỆT NAM ĐỐI ĐẦU GIỮA CỘNG SẢN VÀ TƯ BẢN KHIẾN SINH LỰC CỦA DÂN TỘC BỊ TIÊU HAO TRẦM TRỌNG.
Trước đây, chúng ta bị bộ máy tuyên truyền của Cộng sản lừa dối rằng lực lượng đồng minh Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Thái Lan và Đại Hàn đến Việt Nam để chống lại một nước nhỏ bé là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nhân dân miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, sau hơn 30 năm, chúng ta mới biết cả Liên Sô, Trung Cộng lẫn Bắc Triều Tiên đều tham chiến ở Việt Nam. Việt Nam trở thành chiến trường giữa 2 khối Cộng Sản và thế giới tự do. Nói cách khác, đây là cuộc chiến tranh xâm lược của Cộng sản miền Bắc xâm chiếm miền Nam Tự do. Sự thật lịch sử này được Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố như sau:
“Trong giai đoạn giúp Việt Nam chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc đã vì Việt Nam mà đóng góp không biết bao nhiêu tài lực, nhân lực, vật lực, pháo binh, công binh, nhân viên đường sắt, nhân viên thư tín, hải quân, không quân, hậu cần vận tải. Từ năm 1950 đến năm 1978, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ mỹ kim, trong đó 93% là viện trợ không hoàn lại, đó là chưa kể xương máu mà 1446 chiến sỹ đã hy sinh, 4200 người trọng thương… những hy sinh đó tuyệt đối không thể tính được bằng tiền... Hơn 300.000 lính Hồng quân Trung Quốc ở Việt Nam trong hơn 3 năm 9 tháng đấu tranh. Tác chiến đối không 2153 lần, bắn rơi 1707 máy bay Mỹ, bắt sống 42 phi công Mỹ, … Từ năm 1950 đến năm 1978, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ mỹ kim, trong đó 93% là viện trợ không hoàn lại, đó là chưa kể xương máu mà 1446 chiến sỹ đã hy sinh, 4200 người trọng thương… những hy sinh đó tuyệt đối không thể tính được bằng tiền[5]
Gần đây, chúng ta mới biết được là các đơn vị phòng không Liên Sô và phi công Bắc Hàn cũng tham dự cuộc chiến tranh Việt Nam. Cựu Trung Tướng Yevgeni Antonov, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự của Liên Sô tại Việt Nam tiết lộ rằng Liên Bang Sô Viết đã gởi một trung đoàn phòng không với đầy đủ vũ khí và trang bị sang Việt Nam tham chiến và 13 người lính phòng không Liên Sô đã chết trên chiến trường miền Bắc. Trung đoàn phòng không Liên Sô đã bắn rơi những chiếc máy bay Mỹ đầu tiên trên bầu trời Hà Nội, kể cả chiếc chiến đấu cơ A-4 Skyhawk của Thượng Nghị Sĩ John McCain. Theo tiết lộ của cựu Trung Tướng Yevgeni Antonov, chỉ huy lực lượng phòng không Liên Sô tại Việt Nam từ năm 1969 đến năm 1970 thì Việt Nam là một phòng thí nghiệm cho vũ khí Liên Sô để chuẩn bị cho việc máy bay Mỹ và NATO oanh tạc vào nội địa Liên Sô trong trường hợp có chiến tranh giữa hai khối sau này.
Sự thật lịch sử đã chứng minh rằng cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa 2 phe Cộng sản và Thế giới Tự do, cuộc chiến của Cộng sản miền Bắc xâm lược miền Nam Tự do. Chính Hồ Chí Minh, cán bộ của Cộng Sản quốc tế đã đưa dân tộc vào cuộc chiến tranh ý hệ, hy sinh xương máu của hàng triệu người dân lành vô tội để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản xuống toàn cõi Đông Dương. Sinh lực của dân tộc bị tiêu hao trầm trọng, hàng triệu người dân vô tội hy sinh, đất nước nghèo nàn, tan hoang đổ nát, lòng người ly tán hờn căm uất hận. Cái gọi là thống nhất đất nước chỉ là sự xâm lăng của bạo lực và hận thù khiến dân tộc Việt Nam ly tán, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do, hàng trăm ngàn người đã vùi thây dưới lòng biển cả. Cộng sản Việt Nam đã phơi bầy bản chất độc tài dã man trả thù, hành hạ đày đọa quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tù gọi là “Cải tạo” cùng với biện pháp đổi tiền, đánh tư bản mại sản, bắt đi kinh tế mới để tước đoạt tài sản của nhân dân… Cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng đã “Thống nhất được đất nước” nhưng thực tế đã chứng minh rằng cái gọi là giải phóng miền Nam là một tội ác, đã để lại trong lòng dân tộc một sự phân ly ngăn cách không gì có thể hàn gắn được.
Thế nhưng vấn đề đặt ra là “Ai là người thắng trong cuộc chiến Việt Nam”? Lời thú nhận “Tất cả chúng ta đều đã bị lừa” của Jane Fonda, người đã ủng hộ tích cực nhất cho phong trào phản chiến bị giựt dây bởi Cộng sản đã phải xin lỗi quân đội và nhân dân Hoa Kỳ đã nói lên tất cả sự thật. Không chỉ một Jane Fonda mà cả nước Mỹ và kể cả cán bộ đảng viên và nhân dân miền Bắc cũng bị lừa dối bởi bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chủ nghĩa Cộng Sản đã và đang bị nhân loại vất vào giỏ rác của lịch sử. Hơn ba mươi năm sau, kẻ gọi là chiến thắng lại phải trải thảm đỏ mời người gọi là chiến bại để mong được là đối tác hàng đầu cả về kinh tế lẫn quân sự đã trả lời cho câu hỏi ai thắng ai trong cuộc chiến Việt Nam. Cuối cùng, bốn mươi năm sau, chính Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Việt Nam phải sang Hoa Kỳ ký kết “Tầm Nhìn Chung Việt Mỹ” và tuyên bố kết thúc cuộc chiến Việt Nam, một cuộc chiến không nhằm chống đất nước Hoa Kỳ và cũng không nhằm chống lại nhân dân Hoa Kỳ đã chứng tỏ “Ai Thắng Ai” trong cuộc chiến bi thảm vừa qua.
Trong suốt thời gian chiến tranh, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã chiến thắng cả 5 trận đánh lịch sử. Cộng Sản Việt Nam đã thất bại nặng nề trong tổng công kích tết Mậu Thân 1968, trên phương diện chính trị Cộng Sản Việt Nam lại thất bại hơn vì không có một người dân nào ở miền Nam tự do “Tổng Nổi Dậy” theo lời kêu gọi của cái gọi là mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. Thế nhưng, sự kiện tết Mậu Thân được phe phản chiến trong đảng Dân chủ và thế lực ngầm tài phiệt Do Thái được sự tiếp tay hỗ trợ của Cộng Sản Quốc tế tuyên truyền trên toàn thế giới để chống lại Hoa Kỳ. Liên Sô đã huy động 500 ngàn đảng viên trên toàn thế giới với 2 tỷ đô la mỗi năm để tài trợ, thổi phồng phong trào phản chiến lên cao độ khiến hành pháp Hoa Kỳ phải bó tay không được hành động. Đại Tướng Westmoreland, Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam đã chua chát nhận định: “Chúng ta đã tham dự một cuộc chiến mà bị trói một tay, một cuộc chiến tranh không được thắng. Chúng ta không thua tại Việt Nam, nhưng chúng ta đã không giữ đúng lời cam kết với quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Thay mặt cho quân đội Hoa Kỳ, tôi xin lỗi các bạn cựu quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vì chúng tôi đã bỏ rơi các bạn…”. Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đã tuyên bố trong buổi lễ Ngày Cựu Chiến binh năm 1982 như sau: “Chúng ta hãy tôn vinh những chiến sĩ Hoa Kỳ đã chiến đấu tại Việt Nam. Họ là những chiến sĩ anh hùng vì họ đã chiến đấu trong hoàn cảnh không có quyền thắng trận”.Hơn ba mươi năm sau khi kết thúc cuộc chiến, Henry Kissinger, trong cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 29-9-2010 đã tự nhận lỗi lầm: “Sự thảm bại tại Việt Nam vào ngày 30-4-1975 là do Hoa Kỳ gây nên, chứ không phải Việt Nam Cộng Hòa”.
Trong chuyến thăm Hoa Kỳ năm 2015 của Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã cùng với Tổng Thống Hoa Kỳ ký kết “Tầm Nhìn Chung Việt-Mỹ”. Tổng Bí Thư Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố “Cuộc chiến Việt Nam được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Đối với nhân dân Việt Nam, đó là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Thế nhưng cuộc chiến đó không nhằm chống lại đất nước Hoa Kỳ và càng không phải chống lại nhân dân Hoa Kỳ”. Đây là một sự kiện chuyển biến lịch sử nên lần đầu tiên, Quốc Hội Hoa Kỳ đã chính thức tổ chức lễ Tưởng Niệm hơn 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh vì lý tưởng Tự do trong cuộc chiến VN.
Cuộc chiến Việt Nam, chấm dứt ngày 30 tháng Tư năm 1975 sau khi quân đội Mỹ hoàn toàn rút về nước theo chương trình Việt Nam hóa chiến tranh 1972, là cuộc chiến tốn nhiều giấy mực và không biết bao nhiêu tranh cãi cũng như bất đồng về sự tham chiến của người Mỹ 50 năm trước. Đã có 58.200 binh sĩ Hoa Kỳ bỏ mình trên chiến trường Việt Nam, 305 ngàn người trở về với thương tích trên thân thể trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế với nỗi đau trong tâm hồn của người lính bị cho là tham dự không chính đáng vào một cuộc chiến ở một đất nước khác ngoài Mỹ quốc. Trong khi đó, tổng số quân nhân và dân thường Việt Nam hy sinh trong cuộc chiến lên tới hàng triệu người (từ 2-4 triệu). Thống kê cho biết 310 ngàn quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và 849.018 bộ đội Cộng sản hy sinh trên chiến trường. Lời tuyên bố của Nguyễn Phú Trọng mới đây đã phủ nhận toàn bộ “ Cái mà trước đây gọi là Cuộc Chiến Chống Mỹ Cứu Nước” mà họ tuyên truyền mấy chục năm nay. Lời tuyên bố trên cũng thừa nhận sự sai lầm của đảng Cộng sản Việt Nam đã hy sinh hàng triệu đồng bào cho một cuộc chiến phi nghĩa. Cái gọi là “cuộc kháng chiến thần thánh chống Mỹ Cứu nước” đã được bỏ vào sọt rác lịch sử và hơn bao giờ hết người dân Việt, kể cả những thành phần đảng viên bảo thủ nhất cũng phải thừa nhận một sự thật lịch sử là tập đoàn Việt gian Cộng Sản là tay sai, là con cờ của Liên Sô và Trung Cộng như lời thú nhận của Lê Duẫn: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Sô, đánh cho Trung Quốc”. Nhận định về việc Hoa Kỳ rút chân ra khỏi Việt Nam,Bill Sullivan, thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dươngtrả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy ông nghe có vẻ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn. Ðặc biệt nữa là người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.”. Thật vậy, sau khi ký hiệp ước Thượng Hải, Nixon Việt Nam hóa chiến tranh kéo Trung Quốc về phía HK đã phân hóa hàng ngũ CS quốc tế và cuối cùng Liên Xô tan rã…
Hơn 50 năm sau ngày quân đội Hoa Kỳ chính thức tham chiến tại chiến trường Việt Nam, Quốc hội Hoa Kỳ đã chính thức làm Lễ Tưởng niệm 58.200 quân nhân anh hùng Hoa Kỳ đã hy sinh vì lý tưởng tự do tại Việt Nam. Chủ Tịch Hạ Viện Hoa Kỳ John Boehner đã vinh danh những chiến sĩ tự do, đất nước và nhân dân Mỹ phải nhớ ơn một thế hệ trẻ đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho lý tưởng tự do với ý nghĩa cao đẹp của các chiến binh Hoa Kỳ: “Đất nước và nhân dân Mỹ phải nhớ ơn một thế hệ trẻ đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho lý tưởng tự do mà giá trị của nó luôn được ghi nhận”.[6]
Sau ngày Cộng sản xâm chiếm miền Nam, hàng triệu người phải bỏ quê hương ra đi tìm tự do nhưng 50 năm sau, ngọn cờ vàng vẫn tung bay trên khắp thế giới như biểu tượng cho dân chủ tự do. Cuộc chiến ngày nay không còn là cuộc chiến của miền Nam tự do nữa mà đã trở thành cuộc chiến của toàn dân tộc chống tập đoàn Việt gian Cộng Sản độc tài, bất nhân hại dân bán nước. Một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ sẽ chuyển đổi lịch sử trong nay mai và mà thắng lợi cuối cùng chính là của dân tộc Việt Nam.
II. CỘNG SẢN THỐNG TRỊ DÂN TỘC.
Tùy theo quan niệm người ta có thể xem biến cố 30-4 là Ngày Giải phóng, ngày thống nhất dân tộc hay là ngày Quốc Hận. Tuy nhiên đứng trên phương diện lịch sử thì ngày 30-4 là ngày Cộng sản Thống trị Dân tộc Việt. Trước hết, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân khiến Việt Nam Cộng Hòa xụp đổ.
Trong 4 năm đầu của TT Nixon (1969-1972), thượng viện Mỹ do đảng Dân chủ nắm đa số đã biểu quyết tổng cộng 80 lần để trói tay cấm đoán Nixon trong các quyết định đánh Cộng sản, hay đòi hỏi Nixon phải chấm dứt chiến tranh, rút Mỹ ra khỏi Nam Việt Nam. Điện ảnh Hoa Kỳ được phong trào phản chiến chi viện đã chiếu những cảnh ghê rợn của chiến tranh trên TV của mỗi gia đình Mỹ mỗi bữa cơm tối, trước hình ảnh của cả chục ngàn thanh niên Mỹ về Mỹ bằng hòm gỗ phủ cờ hoa, hàng trăm ngàn bị thương, trước những bài báo phóng sự miệt thị, bôi bác miền Nam Việt Nam, trước những hình ảnh như sư tự thiêu, tướng Việt Nam Cộng Hòa bắn tù binh Việt Cộng, cô bé trần truồng chạy tránh bom napalm, cả trăm đàn bà vả trẻ con bị lính Mỹ giết tại Mỹ Lai,… trong khi ‘ánh sáng cuối đường hầm’ không thấy đâu, dân Mỹ thay đổi quan điểm về cuộc chiến. Đảng Dân Chủ ủng hộ triệt để thời Kennedy, chuyển qua chống đối triệt để dưới thời Nixon. Chính khách hoạt đầu chủ hòa từ Mac Govern đến Bill Clinton, John Kerry, J Biden vận động tranh cử với chiêu bài gọi là ‘chống chiến tranh’, dẫn đến bỏ miền Nam mất hòa bình vào tay Cộng sản. Sau khi ‘Hòa Ước Paris’ đã được ký, trên nguyên tắc đem lại cho Việt Nam để Hoa Kỳ danh chính ngôn thuận rút chân khỏi chiến tranh Việt Nam.
TT Nixon cố gắng bằng mọi cách chặn đứng những vi phạm hòa ước thô bạo này của CSBV. Nhưng mọi cố gắng của TT Nixon đều bị phe Dân chủ trong thượng viện chống đối kịch liệt và ngăn cản tối đa, khi thượng viện liên tục biểu quyết trói tay Nixon. Từ luật cấm đánh qua Căm Pu Chia tới cấm thả bom Lào, tới cấm đánh bom Bắc Việt,… Trong tất cả những biểu quyết trói tay Nixon đó, tân thượng nghị sĩ Joe Biden đã không vắng mặt bất cứ một lần nào. Luôn luôn có mặt để biểu quyết chống mọi nỗ lực cứu miền Nam của Nixon, kể cả tất cả mọi biểu quyết cắt giảm viện trợ quân sự hay cả kinh tế cho Việt Nam Cộng Hòa.
Một điểm nữa là miền Nam Việt Nam theo chế độ dân chủ nên dẫn tới tình trạng tự do thái quá, đảo chính chỉnh lý liên tục khiến nội tình suy yếu. Trước áp lực của dư luận Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu phải từ chức bàn giao cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương rồi quốc hội thân cộng lại áp lực khiến Tổng Thống Trần văn Hương phải trao quyền cho Dương văn Minh. Cuối cùng Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng ngày 30 tháng tư năm 1975. Mặt khác một biến cố khách quan xảy ra đã tác động trực tiếp vào sự suy vong của miền Nam Việt Nam. Ngày 6 tháng 10 năm 1973, Khối Ả Rập bất ngờ tấn công Do Thái đang cử hành Lễ Đền tội “Yum Kippur”. Quân Do Thái bị thảm bại nên Tổng Thống Nixon cho thiết lập cầu không vận tiếp liệu cho Do Thái. Do Thái phản công, sau hơn 3 tuần, khối Ả rập phải ký hiệp định đình chiến. Sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho Do Thái khiến khối Ả Rập tức giận, OPEC quyết định giảm mức sản xuất khiến giá dần thô tăng gấp 4 lần đồng thời các nước Abu Dhabi, Libyia, Saudi Arabia, Algeria và Kuwait cấm vận, cắt đứt dầu hỏa xuất cảng sang Hoa Kỳ. Chính phủ Nixon phải áp dụng chính sách khắc khổ nên nên người dân bất mãn và Việt Nam Cộng Hòa chịu hậu quả trầm trọng của cuộc chiến này.
Quân viện của Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng Hòa tài khóa 1972-1973 là 2,1 tỷ dollars, sau khi Hoa Kỳ bị cấm vận dầu lửa, quân viện giảm xuống còn 1 tỷ 2 và tài khóa 1974-1975 là 1 tỷ. Tháng 8 năm 1974, mức chuẩn chi 1 tỷ cho Việt Nam Cộng Hòa bị cắt xuống còn 700 triệu dollars. Khi Tổng Thống Nixon xin quốc hội viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa thì quốc hội chỉ chuẩn chi 313 triệu Dollars. Như vậy, quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa từ 2,1 tỷ bị cắt 1,4 tỷ được chuyển sang cho Do Thái nên quân viện Do Thái tăng lên 1,5 tỷ nên chỉ còn viện trợ 700 triệu cho năm 1974 rồi rút xuống còn 313 triệu dollars. Trong khi đó, tình hình chiến sự ngày một gia tăng với sự xâm nhập ồ ạt binh sĩ và vũ khí của quân Cộng Sản mà theo phúc trình của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thì số đạn tồn kho sẽ hết vào tháng 6 năm 1975 nên chỉ còn đủ cung ứng được từ 30-45 ngày. Chính quyền Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cố gắng chống chọi bằng mọi giá, từ những lá thư khẩn cầu viện trợ gởi đích danh đến Tổng thống Ford, Quốc hội, Bộ Quốc phòng Mỹ, kể cả việc đem các mỏ dầu Hoa Hồng (nay là Bạch Hổ) dù mới ở giai đoạn thăm dò thấy dầu ra “thế chấp” để vay tiền. Cuối cùng, chẳng còn gì hết, người Mỹ không hỗ trợ quân sự cũng cắt tiếp viện cho Sài Gòn!
Ngày 26 tháng 2 năm 1975, Tổng Thống Ford gửi thư cho Tổng Thống Thiệu gợi ý về việc điều đình để có 1 giải pháp chính trị “… Chúng tôi tiếp tục tin tưởng rằng việc thực thi hiệp định Paris, cùng các cuộc điều đình trực tiếp giữa các phe phái Việt Nam, là con đường nhanh nhất, hữu hiệu nhất để chấm dứt cuộc đổ máu tại Việt Nam…”. Cuối cùng, ngày 13 tháng 3 năm 1975, đảng Dân chủ chiếm đa số tại thượng viện và Hạ viện bỏ phiếu cho một nghị quyết chống bất cứ viện trợ nào thêm cho Việt Nam. Trước thực trạng đó, Tổng Thống Thiệu đã phải quyết định “Tái phối trí” lực lượng vì không còn đủ khả năng phòng thủ diện địa nữa. Ngày 15 tháng 3 năm 1975, cuộc di tản chiến thuật từ Pleiku tạo nên một bầu không khí hoảng loạn của quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa. Do áp lực của quốc hội, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu bàn giao chính quyền cho Phó Tổng Thống Trần văn Hương rồi Tổng Thống Trần văn Hương bàn giao cho Đại Tướng Dương văn Minh mở đầu cho sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa ngày 30 tháng 4 năm 1975 trong sự tiếc nuối của hàng chục triệu Quân Dân Cán Chánh miền Nam Việt Nam.
Sau 50 năm Cộng sản thôn tính Việt Nam thì đất nước Việt Nam vẫn còn nghèo nàn chậm tiến, tụt hậu so với các quốc gia khác… Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam do đảng Cộng sản lãnh đạo thực hiện chế độ độc tài toàn trị. Tất cả mọi quyền tự do căn bản bị tước đoạt,, người dân không có một quyền tự do nào như quyền ứng cử và bầu cử tự do. Tất cả các cuộc bầu cử đều bị kiểm soát, và sắp xếp của Đảng và nhà nước CS. Những nhà hoạt động nhân quyền và dân chủ, cũng như các nhà lãnh đạo tinh thần các tôn giáo, đều bị bắt giữ và đàn áp dã man. Mọi bất đồng chính kiến,đều bị coi như là chống lại chế độ và bị dập tắt đàn áp thô bạo.
Đồng thời nền kinh tế Việt Nam theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa nên là nền kinh tế phi thị trường với mức nợ công đến cuối năm 2024 khoảng 36-37% GDP (tương đương 4-4,1 triệu tỷ đồng). Ngoài ra, nợ Chính phủ 33-34% GDP; nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 32-33% GDP. Các khoản trả nợ nước ngoài năm nay chiếm khoảng 8-9% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ. Các khoản nợ Chính phủ có 76% từ nguồn vay trong nước, trong đó chủ yếu là trái phiếu. Còn các chủ nợ nước ngoài chủ yếu là đối tác phát triển đa phương và song phương như Ngân hàng Thế giới (World Bank), Ngân hàng Phát trine châu Á (ADB), Nhật Bản và Hàn Quốc…
Đảng Cộng sản và nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam đang lâm vào bước đường cùng đó là sự bế tắc của chế độ, “Điểm nghẽn của Thể chế” khiến đất nước không thể phát triển và ngày càng lệ thuộc đế quốc mới Trung Cộng. Toàn quân toàn dân phải đứng lên đấu tranh thúc đẩy tiến trình Dân chủ hóa Việt Nam tiến tới giải thể bạo quyền Cộng sản mở ra một vận hội mới cho dân tộc
III. VIỆT NAM TRÊN ĐƯỜNG TƯƠNG LAI.MỘT ĐẠI VIỆT NAM SIÊU BIÊN CƯƠNG.
Đất nước Việt Nam của chúng ta sau ngày 30-4-1975 với sự thống trị của tập đoàn Việt gian Cộng Sản là một chuỗi những tang thương mất mát, lòng người ly tán, nghèo nàn lạc hậu, đất nước mất dần vào tay Tầu Cộng. Bên cạnh những mất mát đó, điều kiện khách quan của lịch sử khiến hàng triệu đồng bào phải rời bỏ quê hương ra đi tỵ nạn trên khắp thế giới. Sau hơn 45 năm đồng bào Việt Nam cư trú tại Hải ngoại đã lên tới gần 5 triệu người Việt Nam với số lượng trí thức chuyên viên giỏi nhất và nhiều nhất thế giới. Tinh thần hiếu học cùng với ý chí tiến thủ, con em của chúng ta đã thành đạt và đã đóng góp rất nhiều với những quốc gia sở tại như những công dân danh dự của nước này.
Điều kiện khách quan của lịch sử cũng đã tạo cho Việt Nam chúng ta có những người Mỹ gốc Việt, người Nga gốc Việt, người Nhật gốc Việt, người Đức gốc Việt, người Anh gốc Việt, người Pháp gốc Việt… người Việt chúng ta, ngôn ngữ của chúng ta trải ra khắp thế giới. Với sức sống vô biên, dân tộc Việt Nam chúng ta đã thành hình một Siêu Quốc Gia “ĐẠI VIỆT NAM SIÊU BIÊN CƯƠNG” trải dài trên toàn thế giới. Với truyền thống yêu nước thương nòi của người Việt khắp nơi trên thế giới mặc dù sinh sống ở đâu lòng vẫn hướng về tổ quốc, về quê hương đất nước Việt Nam vẫn quây quần tụ hội trong tình ruột thịt, nghĩa đồng bào trong các hội đoàn, đoàn thể, dưới mái nhà Việt Nam trong các hội Đồng hương tại mỗi quốc gia, mỗi tiểu bang, mỗi quận hạt thành phố. Sau khi chế độ Cộng sản xụp đổ, những người Việt Nam yêu nước sẽ trở về mang theo tài sản, vốn tri thức để đóng góp tài năng trong công cuộc kiến quốc và hưng quốc Việt Nam. Thế hệ trẻ sẽ ở lại hội nhập vào dòng chính của đất nước, quê hương thứ hai sau Việt Nam. Tất cả sẽ tạo nên một sức mạnh Việt Nam tiềm tàng, một Việt Nam siêu biên cương chắc chắn sẽ đóng góp hết sức to lớn trong công cuộc kiến thiết quốc gia và phục hưng quốc gia Đại Việt Nam trong tương lai.
Đất nước Việt Nam đang bước qua một khúc quanh lịch sử quyết định sự sống còn của dân tộc nếu toàn thể đồng bào Việt Nam trong nước không đứng lên đáp lời sông núi trên toàn quốc đồng loạt xuống đường đấu tranh giải thể bạo quyền, giành lại dân chủ tự do và quyền sống làm người, quyền làm chủ đất nước. Đồng bào Hải ngoại chúng ta được may mắn sinh sống trên một quốc gia dân chủ tự do, được hưởng quyền sống làm người, hành xử quyền của một công dân trong khi gần 100 triệu đồng bào Việt Nam chúng ta sống dưới sự cai trị khắc nghiệt của chế độ Cộng sản toàn trị tước đoạt mọi quyền tự do căn bản của một con người, thậm chí xem mạng sống của người dân như cỏ rác, như súc vật không hơn không kém… Chính vì vậy mà Thượng viện Tiểu bang California Hoa Kỳ vừa thông qua quyết nghị SCR 7 lịch sử “Tưởng niệm 44 năm ngày cộng sản xâm chiếm miền Nam Việt Nam và quyết nghị tháng 4 năm 2019 là “Black April-Tưởng Niệm Tháng Tư Đen”. Nội dung bản Nghị quyết ghi rõ “Ngày 30 tháng 4 năm 2019 đánh dấu 44 năm ngày Cộng sản Việt Nam xâm chiếm miền Nam VN. Điều quan trọng là chúng ta không bao giờ quên thảm kịch Black April-Tháng Tư Đen này và nhận thức được mối quan tâm hàng đầu hiện nay của những người Mỹ gốc Việt – Nhân quyền, tự do tôn giáo, dân chủ và đấu tranh chống lại nguy cơ đất nước Việt Nam bị xâm lược”. Chính vì vậy, mục đích đầu tiên của giới trẻ Việt Nam ở Hải ngoại là phải thúc đẩy “TIẾN TRÌNH DÂN CHỦ HÓA VIỆT NAM” mà nhiệm vụ trước mắt là phải vận động công luận quốc tế, chính giới các nước tạo áp lực buộc nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam phải tôn trọng Nhân quyền, Dân quyền, Vận động chính giới các nước mình đang sinh sống lên tiếng bảo vệ các tù nhân lương tâm, thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa Việt Nam tiến tới giải thể bạo quyền Cộng sản.
Tập đoàn Việt gian Cộng sản đang cầm quyền không được toàn dân bầu ra trong một cuộc bầu cử dân chủ tự do, nhà cầm quyền áp đặt người dân phải tuân theo chủ nghĩa Cộng sản vô thần, phi nhân phản dân tộc đang sát nhập đất nước chúng ta vào lãnh thổ của đế quốc mới Trung Cộng. Trước đại họa mất nước, sứ mạng lịch sử của thanh niên sinh viên giới trẻ quốc nội và Hải ngoại, tương lai của đất nước là phải kết hợp thành “MỘT PHONG TRÀO TOÀN DÂN CỨU NƯỚC” để quyết tâm hoàn thành một cuộc cách mạng Dân tộc Cứu Quốc và kế tiếp là cuộc cách mạng dân tộc kiến quốc để hưng quốc… Yêu cầu lịch sử đặt ra cho giới trẻ tại Hải Ngoại mà điều kiện khách quan của lịch sử đã tạo cho dân tộc chúng ta một thế hệ trẻ có đầy đủ tri thức thời đại để hoàn thành “MỘT CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC KỸ THUẬT SIÊU VƯỢT”, đưa đất nước chúng ta bước lên sánh vai cùng các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Toàn thể đồng bào trong nước và Hải ngoại cùng nắm chặt tay nhau, muôn người như một cùng đứng lên đáp lời sông núi để cứu quốc và hưng quốc, tô điểm giang sơn gấm vóc, xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng. Với sức sống vô biên của người Việt Nam chúng ta, với “Đại Nghĩa Cao cả” của Hào khí Diên Hồng-Tây Sơn Thời Đại, chúng ta nguyện làm hết sức mình, quyết tâm tranh đấu thúc đẩy tiến trình dân chủ, giải thể bạo quyền Cộng sản.
ĐẠI NGHĨA TẤT THẮNG HUNG TÀN CHÍ NHÂN PHẢI THAY CƯỜNG BẠO!
Trân trọng kính chào toàn thể quý vị.
PHẠM TRẦN ANH
Chú thích:
1. Bảo Đại: Hồi ký “Con Rồng Việt Nam” Nguyễn Phước Tộc xuất bản năm 1990, tr 162. “… Đây là lần đầu tiên, một tuyên ngôn được toàn thể thành viên Viện Cơ Mật đồng ý ký tên… Ngày hôm sau, 12 tháng 3 năm 1945, tôi cho mời viên Đại Sứ Yokoyama và trao cho ông ta bản tuyên ngôn độc lập này.
2. Trích “Văn Kiện Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Vietnamplus.vn: Khẳng định lại thắng lợi to lớn của Hiệp định Geneva 1954, Báo cáo Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đã nêu rõ: “Việc lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc Việt Nam, và đặt cơ sở pháp lý cho việc thống nhất nước Việt Nam là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, hòa bình và dân chủ trên thế giới. Nó phản ánh tình hình lực lượng so sánh ở Đông Dương và trên thế giới lúc bấy giờ.”.Wikipedia: “Ngày 19 tháng 7, sau khi trao đổi với đoàn Liên Xô và Việt Nam, Trung Quốc xác nhận với đoàn Pháp lập trường về đường giới tuyến đặt ở Vĩ tuyến 17 trong khi phía Việt Nam vẫn cương quyết đề nghị lấy Vĩ tuyến 16. Chu Ân Lai nói với phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa “nếu các đồng chí đánh tiếp, Mỹ sẽ nhảy vào can thiệp“. Phải đến phiên họp cuối buổi chiều ngày 20-7, phía Việt Nam chấp nhận Vĩ tuyến 17.
4. Bạch thư của nhà nước CHXHCNVN “Sự thật về quan hệ Việt Nam Trung Quốc 30 năm qua. Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất bản ở Bắc Kinh năm 1954.
5. Giáo sư Sử học người Trung Quốc Qiang Zhai là nhà khoa học đầu tiên mang góc nhìn của Trung Quốc về chiến tranh Việt Nam ra phương Tây. Quyển “Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam” (China and the Vietnam War). Bản tin BBC ngày 21-4-2022. Trung Quốc, từ tháng 6 năm 1965 đến tháng 8 năm 1973, đã điều động tổng cộng hơn 320.000 binh sĩ thuộc các quân chủng phòng không, công binh, đường sắt, rà phá bom mìn và hậu cần để thực hiện các nhiệm vụ phòng không, xây dựng, rà phá bom mìn và đảm bảo hậu cần ở miền Bắc Việt Nam. Đây là con số vừa được đài phát thanh China Radio International của Trung Quốc, ban tiếng Việt, ghi nhận trong một bài báo đăng ngày 20-4-2022.
6. Sài Gòn xưa 2018 “Gần đây cựu ngọai trưởng Kissinger nói chuyện trong một cuộc hội thảo tại Bộ ngoại giao Mỹ về lịch sử sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á. Kissinger cho rằng phần lớn thất bại ở Việt Nam do chúng ta (người Mỹ) gây ra cho chính mình, trước hết ta đã đánh giá quá thấp sự kiên trì lỳ lợm của các nhà lãnh đạo CS Hà Nội. Những bất đồng quan điểm về sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam đã ảnh hưởng đến tinh thần của chính sách ngọai giao và rồi ảnh hưởng đến cả nước Mỹ. Tôi cho là tất cả sự thất bại ở VN do chính chúng ta tạo nên. Tôi mong có một chung cục khác hơn là cảnh chúng ta xâu xé nhau tan nát.
Việt Đạo, Đạo sống Việt là đạo lý làm người của dân tộc Việt Nam. Đạo là con đường dẫn dắt người ta hướng thượng, tiến tới “Chân – Thiện – Mỹ” để mỗi người, ngày càng hoàn thiện hơn. Đạo là con đường chính nghĩa đúng đắn nên chúng ta mới gọi là Đạo Phật với giáo lý “Bát chánh Đạo”, Đạo Thiên Chúa, Đạo Nho, đạo Lão, đạo Khổng, đạo Tin Lành, đạo Cao Đài, Đạo Phật Giáo Hòa Hảo… Từ ý nghĩa cao cả tuyệt vời của chữ “Đạo” nên chúng ta mới có những từ ngữ như Đạo đức, Đạo Hạnh, Đạo Học, Đạo Lý, Đạo Tâm… để diễn tả nhân phẩm, giá trị của mỗi người trong xã hội xô bồ hỗn tạp này.
Truyền thống cao đẹp của nền văn hóa Việt cổ tôn trọng con người, xem con người là gốc “Nhân bản” và “Cộng Tồn”, cùng sống chung hòa bình an lạc. Ngay trên Đền Hùng có bốn chữ đại tự “Quyết sơ Sinh Dân” để nhắc nhở các bậc Vua Chúa, các nhà lãnh đạo phải quan tâm, lo cho đời sống của người dân nên trên đền Hùng. Con người là mục đích đầu tiên và cũng là cùng đích cũng là tôn trọng sự sống, tôn trọng nhân quyền, bảo vệ phẩm giá của mỗi người dân. Trong “Bình Ngô Đại Cáo” thời Lê, bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai đã tuyên xưng “Việc đại nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” nên “Lấy Đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy Chí nhân để thay cường bạo”. Lịch sử Việt đã chứng minh rằng tinh thần hòa đồng tôn giáo qua chủ trương “Tam giáo Đồng Nguyên” thời Trần và Hòa hợp dân tộc giữa các chi tộc Việt, kẻ ở miền cao-người ở miền xuôi đều xem nhau như “Đồng Bào” cùng chung huyết thống của Bố Rồng Mẹ Tiên, Bố Lạc Mẹ Âu.
Mỗi dân tộc đều có những truyền kỳ lịch sử được thần thoại hoá thể hiện lòng tự hào dân tộc mang tính sử thi của mình. Thật vậy, huyền thoại Rồng Tiên về ngọn nguồn huyết thống Việt tuy đượm vẻ huyền hoặc nhưng lại tràn đầy tính hiện thực, thấm đậm nét nhân văn của truyền thống nhân đạo Việt Nam. Huyền sử con Rồng cháu Tiên là niềm tự hào của nòi giống Việt. Đã là người Việt Nam thì từ em bé thơ ngây đến cụ già trăm tuổi, từ bậc thức giả uyên bác đến bác nông dân suốt đời chân lấm tay bùn, không ai không một lần nghe truyện cổ tích Họ Hồng Bàng. Thật vậy, ai trong chúng ta mà không biết về nguồn cội Rồng Tiên với thiên tình sử của “Bố Lạc Mẹ Âu” mở đầu thời kỳ lập quốc của dòng giống Việt. Truyền thuyết Việt Nam nói đúng hơn, là truyền kỳ lịch sử Việt Nam được hư cấu dưới lớp vỏ huyền thoại nhưng thực chất dựa trên sự thật lịch sử được hư cấu như một huyền tích trong đó đề cao con người với ý nghĩa nhân bản truyền thống. Truyền thuyết Việt Nam biểu trưng một triết lý văn hoá cao đẹp không những thấm đậm tính nhân đạo, chan chứa vẻ nhân văn, mà còn tràn đầy tình đồng bào, nghĩa ruột thịt qua hình tượng “Bọc điều trăm trứng nở trăm con”.
Chính vì vậy, yêu nước thương nòi là Đạo lý sống của người Việt Nam. Từ ý niệm đồng bào dẫn đến lòng yêu nước, thương nòi, yêu quê cha đất tổ, tất cả đã trở thành giá trị đạo lý truyền thống của nền văn minh đạo đức Việt Nam. Henri Bernard Maitre một nhà Việt Nam Học đã ca tụng nét đẹp văn hiến của Việt tộc qua đền thờ Văn Miếu: “Văn Miếu không phải để cầu kinh hay làm bùa phép mà là nơi trang trọng ghi ơn các anh hùng dân tộc, các danh nhân văn hoá, các vị Tiến sĩ với những chuẩn mực đạo đức để con cháu đời sau ghi sâu vào tâm khảm bài học về đạo làm người Việt Nam, xứng đáng với hoài bão của Tiền Nhân”. Đối với người Việt, việc thờ cúng “Nhân Thần” và các Anh hùng Dân tộc, thờ cúng Ông bà Tiên tổ là đạo lý làm người trong đời sống tâm linh của người Việt. Từ xa xưa người Việt coi trọng đạo nghĩa nên thường nghĩ tới ngày giỗ của người thân hơn là chú trọng đến ngày “sinh nhật” của mình. Ngày nay, dù giới trẻ quan tâm nhiều đến ngày sinh nhật nhưng cũng không quên những ngày cúng giỗ người thân trong gia đình. Đạo thờ cúng ông bà là một “Việt đạo” thể hiện đạo lý làm người Việt Nam.
Linh mục Cadière một thừa sai ngoại quốc đến Việt Nam truyền giáo phải thốt lên “Việt Nam là một dân tộc có tinh thần tôn giáo cao độ”. Học giả P. Mus nghiên cứu về Việt Nam cũng thừa nhận rằng “Dân tộc Việt có một đời sống tâm linh cao, người Việt không làm việc, họ tế tự”. Thật vậy, người ngoại quốc ngạc nhiên khi thấy “Mỗi gia đình Việt Nam là một nhà thờ, nhà nào cũng có bàn thờ gia Tiên ở chính giữa nhà. Trong đời sống tâm linh Việt, Nhất cử nhất động, việc gì cũng tràn đầy tính chất thiêng liêng, thờ phượng, tế lễ, cúng giỗ với tất cả tấm lòng chí thành”. Đây chính là điểm đặc thù độc đáo thấm đậm bản sắc dân tộc, tràn đầy vẻ nhân văn của triết lý văn hoá nhân chủ Việt Nam. Trong đời sống tâm linh Việt không chỉ hiển hiện ở bàn thờ Gia Tiên mà đền thờ ngự trong tâm thức mỗi người.“Người Việt không tham dự vào các buổi lễ để được ban phát ân sủng, mà họ hiệp thông cầu nguyện như một người “Tư Tế” với tất cả tính chất thiêng liêng của một tôn giáo”. Điều này thể hiện giá trị cao đẹp đặc trưng đời sống tâm linh của người Việt cổ.
Thờ cúng tổ tiên chính là đạo lý làm người, là dòng sống tâm linh thiêng liêng cao cả truyền từ đời này sang đời khác. Chính dòng sống tâm linh này đã góp phần bảo tồn dòng giống Việt. Truyền thống thờ cúng ông bà không còn là một tập tục, một tín ngưỡng đơn thuần mà đã trở thành đạo lý của dân tộc. Thờ cúng ông bà được xem như Tổ Tiên chính giáo của đạo làm người Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu một sĩ phu yêu nước thế kỷ 19 đã ân cần nhắc nhở “Thà đui mà giữ đạo nhà, Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ”. Người Việt Nam ai cũng biết uống nước phải nhớ nguồn vì “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn đạo hiếu mới là đạo con ..!” và “ Ơn cha mẹ thề không lỗi đạo, Thờ sống sao thờ thác làm vầy. Công cha nghĩa mẹ xưa nay, Con nguyền ghi nhớ thảo ngay một lòng”.
Đây chính là điểm độc đáo của dòng sống tâm linh Việt vẫn tiếp nối truyền lưu trong mỗi con người Việt Nam chúng ta hôm nay và mãi mãi về sau. Thật vậy bên cạnh đời sống thực tế khổ đau trước mắt, vẫn hiển hiện một đời sống tâm linh sâu thẳm, thấm đậm tính nhân bản hiện thực cao đẹp. Chính dòng sống tâm linh đó đã tạo cho mỗi người Việt Nam một quan niệm sống lạc quan yêu đời, an nhiên tự tại nhưng vẫn sẵn sàng hy sinh mạng sống cho nền độc lập thực sự, quyền tự do thực sự và sự ấm no hạnh phúc thực sự cho toàn dân Việt Nam.
Lịch sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm từ khi lập quốc đến ngày nay với gần một ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, gần một trăm năm nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ nô dịch chủ nghỉa vô thần, Hán hóa dân tộc. Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc bành trướng với ưu thế của một nước lớn đất rộng người đông cùng với những thủ đoạn thâm độc quỷ quyệt xóa đi mọi dấu vết cội nguồn, bóp méo sửa đổi lịch sử khiến thế hệ sau chỉ biết tìm về lịch sử trong cái gọi là “chính sử” mù mờ hỗn độn của Trung Quốc. Thật vậy, mỗi một triều đại Hán tộc đều chủ tâm thay đổi địa danh, thủy danh xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh hưởng nặng nề của gần một ngàn năm nô dịch văn hóa nên từ trước tới nay, chúng ta chấp nhận tất cả như một sự thật mà không một chút bận tâm.
Thế nhưng, lịch sử vẫn là lịch sử của sự thật dù bị sửa đổi vùi lấp hàng nghìn năm dưới ánh sáng của chân lý khách quan trước thềm thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại. Bước sang thiên niên kỷ thứ ba, ánh sáng của sự thật soi rọi vào quá khứ bị che phủ hàng ngàn năm bởi kẻ thù Hán tộc bành trướng. Trước đây, nhân loại cứ tưởng tất cả nền văn minh Tây phương là của Hy Lạp La Mã, để rồi sau đó lại cho là nền văn minh đó đến từ nền văn minh của Trung Quốc. Cuối thiên niên kỷ thứ hai, nhân loại lại ngỡ ngàng khi thấy rằng cái gọi là nền văn minh Trung Quốc lại chính là nền văn minh của đại chủng Bách Việt. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải nhìn lại toàn bộ lịch sử Việt để phục hồi sự thật của lịch sử để xóa tan đám mây mờ che lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.
Trong lịch sử nhân loại, có lẽ không một dân tộc nào chịu nhiều mất mát trầm luân như dân tộc Việt với những thăng trầm lịch sử, những khốn khó thương đau. Ngay từ thời lập quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với sức mạnh của tộc người du mục đã đánh đuổi Việt tộc phải rời bỏ địa bàn Trung nguyên Trung Quốc xuống phương Nam để rồi trụ lại phần đất Việt Nam bây giờ. Trải qua gần một ngàn năm đô hộ, với chiến thắng Bạch Đằng Giang năm 938 của Ngô Quyền mới chính thức mở ra thời kỳ độc lập của Việt tộc. Trong suốt trường kỳ lịch sử, tuy bị Hán tộc xâm lấn phải bỏ trung nguyên xuống phương Nam nhưng nền văn hóa của Việt tộc đã thẩm nhập vào đất nước và con người Hán tộc để hình thành “Cái gọi là văn minh Trung Quốc”. Chính sử gia chính thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên đã phải thừa nhận một sự thực là: “Việt tuy gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại công đức với muôn dân vậy …”.[1]
Vạn thế sư biểu, Người Thầy muôn đời của Hán tộc là Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực rỡ, xác nhận tính ưu việt của nền văn minh Bách Việt ở phương Nam. Trong sách Trung Dung Khổng Tử đã viết như sau: “Độ luợng bao dung, khoan hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người quân tử ứng xử như vậy..! Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường bạo hành động như thế…”.[2]Trong kinh “Xuân Thu”, Khổng Tử đã ghi lại bao nhiêu trường hợp cha giết con, con giết cha, cha cướp vợ của con, con cướp vợ của cha, anh chị em dâm loạn với nhau, bề tôi giết chúa … Điều này chứng tỏ Hán tộc du mục vẫn còn dã man mạnh được yếu thua, bất kể tình người, bất kể luân lý đạo đức. Thế mà sách sử Trung Quốc vẫn miệt thị Việt tộc là man di, Thế mà các Thứ Sử Thái Thú Hán vẫn lên mặt giáo hóa dân Việt trong khi Bách Việt ở phương Nam đã đi vào nền nếp của văn minh nông nghiệp từ lâu. Chính “Vạn thế Sư biểu” của Hán tộc là Khổng Tử đã phải đem những nghiên cứu, sưu tập, học hỏi tinh hoa của nền văn minh Bách Việt phương Nam đặt để thành những tôn ti trật tự, những giá trị đạo lý cho xã hội Trung Quốc.
Ngày nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi đó là tất cả năm bộ Kinh Điển, “Ngũ Kinh” được xem như tinh hoa của Hán tộc đã được chính Khổng Tử xác nhận là ông chỉ kể lại “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”, chép lại của tiền nhân chứ không phải do ông sáng tác ra. Ngày nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi khi giới nghiên cứu đều xác nhận hầu hết các phát minh gọi là văn minh Trung Quốc, từ nền văn minh nông nghiệp đến văn minh kim loại, kỹ thuật đúc đồng, cách làm giấy, cách nấu thủy tinh, cách làm thuốc súng, kiến trúc nóc oằn mái và đầu dao cong vút … tất cả đều là của nền văn minh Bách Việt. Chính Hán Hiến Đế, vị vua cuối cùng của triều Hán đã phải thừa nhận như sau: “Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất …”.
Bước sang thế kỷ XX, dân tộc Việt chưa tháo gỡ được cái ách thống trị của thực dân Pháp thì chủ nghĩa cộng sản đã tràn vào Việt Nam đưa dân tộc Việt vào thế khốn cùng. Cộng sản Việt Nam đã núp dưới chiêu bài kháng chiến, giải phóng dân tộc để bành trướng chủ nghĩa cộng sản, tạo cơ hội cho tư bản nhân danh thế giới tự do phải ngăn chặn làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á. Hậu quả là hàng triệu người đã phải hi sinh oan uổng để rồi hơn chín mươi triệu đồng bào đang phải sống dở chết dở dưới chế độ cộng sản bạo tàn phi nhân của tập đoàn Việt gian Cộng sản, những tên “Thái Thú xác Việt hồn Tầu” bất nhân hại dân bán nước. Với chủ trương nô dịch của cộng sản, biết bao thế hệ Việt Nam bị nhồi nhét nền văn hóa Mác-Lê phi nhân tàn bạo mà hậu qủa là tạo ra những cỗ máy vô hồn, những con người vô cảm lạnh lùng, mất gốc.
Trong khi đó, gần 5 triệu đồng bào Việt Nam tỵ nạn Cộng sản trên khắp thế giới nên thế hệ con em chúng ta ở hải ngoại phần nào bị ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai mang tính thực dụng, quên đi bản sắc văn hóa truyền thống Việt chan chứa tình người. Chính vì vậy, vấn đề hết sức khẩn thiết là làm sao phải “Khơi Dòng Sử Việt”, phục hồi sự thật lịch sử để trả lại lịch sử những gì của lịch sử. Một câu hỏi được đặt ra cho tất cả con dân đất Việt, là chúng ta tự hào là người Việt Nam không thua một dân tộc nào trên thế giới, thế nhưng tại sao dân tộc Việt chúng ta vẫn chưa vươn mình lên cùng thế giới?! Phải chăng chúng ta còn thiếu một đích điểm chung, một “Ngọn Cờ” biểu tượng chung để tập hợp sức mạnh của cả dân tộc? Tại sao một dân tộc nhỏ bé như người Do Thái hiện diện trên khắp thế giới đã thể hiện sức mạng tổng lực để trở về xây dựng một quốc gia Do Thái hùng mạnh, có chất xám và tài chánh tạo thành một thực lực đã chi phối chính trường của toàn thế giới? Đây là nỗi ưu tư thao thức, canh cánh bên lòng của những con dân yêu nước.
Chính vì vậy, Cố Chưởng môn Vovinam Việt Võ Đạo Lê Sáng và khoa học gia Dương Nguyệt Ánh đã nhắn nhủ đề nghị chúng tôi đi tìm một “Biểu Tượng Chung” đó là “ĐẠO VIỆT”. Chỉ có “Đạo Việt” mới giương cao được ngọn cờ “Đại Nghĩa” của Hồn Thiêng Sông Núi, quy tụ tất cả con dân Việt Nam đoàn kết một lòng, chung lưng đấu cật để hoàn thành một cuộc cách mạng Đại Việt Nam để phục hưng dân tộc, đưa dân tộc Việt sánh vai cùng các quốc gia hùng cường trên thế giới.
Chúng ta phải “Phục hoạt văn hóa Việt, phục hưng minh triết Việt” với “Đạo Sống Việt”, đạo lý làm người của dân tộc Việt, truyền thống cao đẹp của nền văn hóa Việt để tẩy rửa mọi ý hệ ngoại lai, mọi ý đồ truyền bá văn hóa “Trung Quốc” đang được “những tên Thái thú mới”, “xác Việt hồn Tầu” đang thi hành mệnh lệnh của quan thầy Trung Cộng ra sức nhồi sọ dân tộc Việt. Chính vì vậy, hơn lúc nào hết việc tìm hiểu về huyền thoại Rồng Tiên, khởi nguyên dân tộc Việt Nam với nền văn minh Việt cổ là một yêu cầu lịch sử hết sức cần thiết. Chúng ta phải làm sao xứng đáng với tiền nhân, chúng ta phải làm gì để không hổ thẹn với hồn thiêng sông núi, với anh linh của những anh hùng liệt nữ Việt Nam.
Toàn thể đồng bào trong nước và Hải ngoại cùng nắm chặt tay nhau, muôn người như một cùng đứng lên đáp lời sông núi để cứu quốc và hưng quốc, tô điểm giang sơn gấm vóc, xứng danh ngàn năm dòng giống Lạc Hồng. Chúng ta hãnh diện được làm người Việt Nam thuộc một đại chủng lớn của nhân loại để ngẩng cao đầu sánh vai cùng các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại. Chính niềm tự hào dân tộc sẽ thôi thúc lòng yêu nước của toàn thể đồng bào Việt Nam chúng ta, nhất là thế hệ trẻ trong nước và Hải ngoại để vươn lên làm một cuộc cách mạng Đại Việt Nam: “Cách Mạng Hóa – Hiện Đại Hóa Việt Nam”. Điều kiện khách quan của lịch sử đã tạo cho dân tộc chúng ta một thế hệ trẻ có đầy đủ tri thức thời đại để hoàn thành một cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật siêu vượt, đưa đất nước chúng ta bước lên sánh vai cùng các cường quốc trong thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại.
Tổ Quốc Việt Nam Trường Tồn – Dân Tộc Việt Nam Bất – Việt Nam Muôn Năm.
Mùa Giỗ Tổ 4.893 Việt Lịch (2014 DL)
PHẠM TRẦN ANH
[1] Âu Đại Nhậm: Bách Việt Tiên Hiền Chí. Bản dịch của Trần Lam Giang, TTVHVN trang 17.
[2] Tử lộ vấn cường. Tử viết “Nam phương chi cường dư? Bắc phương chi cường dư? Ức chi cường dư?
Khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo, Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi. Nhậm kim cách, tử nhi bất yếm, Bắc phương chi cường dã, nhi cường dã cư chi. Cố quân tử hòa nhi bất lưu: Cường tai kiểu, trung lập nhi bất ỷ cường tai kiểu. Quốc hữu đạo bất biến tắc yên, cường tai kiểu. Quốc vô đạo,chi tử bất biến, cường tai kiểu”. Tử Lộ hỏi về sức mạnh, Khổng Tử nói: “Là cái cương cường của người phương Nam ư? Hay là nói cái cương cường của người phương Bắc? Hay là nói cái cương cường của riêng ngươi?
Dạy bảo người ta một cách khoan dung, không trả thù kẻ vô đạo, đó là cái cương cường của người phương Nam, người quân tử giữ sự cương cường đó… Còn cứng như sắt thép, dẫu chết cũng không sợ, đó là cái cương cường của người phương Bắc, những kẻ thượng võ hiếu đấu thì giữ sự cương cường này. Người quân tử sống hòa mục với mọi người, nhưng không buông trôi theo thói tục, đấy mới là sự cương cường chân chính”.
Sau 1975, người Việt định cư tại hải ngoại mỗi ngày thêm nhiều. Những lớp người tị nạn ở giai đoạn đầu chỉ mang theo những ký ức, ngôn ngữ và văn hoá để khởi sự cho một cuộc sống mới. Ngôn ngữ không chỉ để duy trì tiếng nói trong lớp tuổi của họ mà còn là một ước vọng, sao cho con cái gìn giữ được ngôn ngữ, làm căn bản như là một người Việt Nam.
Chúng ta biết, ngôn ngữ luôn đi trước để hình thành ra văn hoá. Ngôn ngữ là chìa khoá mở cánh cửa văn hoá của một dân tộc. Khi ngôn ngữ được sử dụng một cách trong sáng sẽ tạo ra một dân tộc có văn hoá đẹp, có 1 nền văn minh riêng và thể hiện sự hài hoà của xã hội. Ngôn ngữ trong sáng dẫn đưa dân tộc đến sự hùng mạnh, quốc gia phú cường, độc lập, tự chủ và mọi người dân sống thêm hạnh phúc.
Từ khái niệm này, người Việt hải ngoại dùng hết nỗ lực thúc đẩy chương trình giảng dạy Việt Ngữ trong con em: Ở Úc Châu, được nền giáo dục đa ngôn ngữ và văn hoá đãi ngộ, nên các chương trình dạy tiếng Việt phát triển mạnh mẽ. Có trường lên 2000 học sinh. Tại Âu Châu cũng có các trường Việt Ngữ, không lớn nhưng cũng khá phổ biến. Tại Á Châu như Thái Lan, Phi Luật Tân cũng có các nơi dạy tiếng Việt phát xuất trong cộng đồng người Việt. Điều thú vị là có 1 làng nhỏ Việt Nam tại Phi Châu cũng tìm cách giữ tiếng Việt trong con cháu để duy trì tiếng nói, mặc dù họ đã sống gần 100 năm, qua hằng hai, ba thế hệ.
Tại Mỹ Châu, gồm Canada và Hoa Kỳ, các lớp tiếng Việt đã hình thành rất lâu, lâu bằng tuổi với thời gian định cư của cha ông đi trước. Thời gian qua, rải rác đây đó có nhiều ngôi trường tổ chức lễ kỷ niệm thành lập 20 năm, thành lập 25 năm, thành lập 30 năm và ngay cả kỷ niệm thành lập 35 năm. Hơn một thế hệ đã qua, hơn hai thế hệ trẻ em đã chào đời, nhưng ngôn ngữ Việt vẫn không ngừng lớn mạnh, luôn đi theo với sức sống của tuổi trẻ. Khi bạn đọc những dòng chữ này, bạn cũng nghe nói hoặc đã tham dự chương trình Huấn Luyện và Tu Nghiệp Sư Phạm tại Nam California lần thứ 30 do Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California tổ chức, cũng tại đại học nơi tổ chức Hội Nghị Thống Nhất Chính Tả Tiếng Việt này.
(Hình sinh hoạt của các em học sinh các lớp lớn, thuộc Trường Việt Ngữ Đức Mẹ La Vang Arlinton TX, người đứng thứ 3 của hàng thứ 2 tính từ trái, mặc áo xanh là cô giáo Đào Thy)
Các tiểu bang nhiều người Việt như Denver Colorado, hơn 10 năm trước, có một giáo xứ công giáo đã xây dựng 1 ngôi thánh đường và đặt tên là Trường Giáo Lý Việt Ngữ Thánh Da-minh Savio với 29 phòng học, để dạy giáo lý và Việt Ngữ cho gần 1000 học sinh. Rồi tiếp theo các nơi tại Texas như Trường Việt Ngữ Đức Mẹ La Vang Arlinton TX, cũng trên 1000 học sinh , tại Portland Oregon, tại Seattle Washington cũng có những ngôi trường có sĩ số học sinh tương tự.
(Giờ sinh hoạt của các em học sinh Trường Giáo Lý Việt Ngữ Thánh Da-minh Savio, Denver CO, trường với trên 1000 học sinh)
Tại California, người Việt sống ở hải ngoại là đông đảo hơn cả. Miền Bắc và miền Nam California có đến trên 100 ngôi trường, hoặc trung tâm dạy tiếng Việt lớn nhỏ. Có trường sĩ số học sinh lên trên 1000, như tại trường Văn Lang San Jose. Nam California có 2 trường lớn như Trung Tâm Văn Hoá Việt Nam với công đầu là thầy Huỳnh Phổ, Trung Tâm Văn Hoá Hồng Bàng với nỗ lực không ngừng của cô Huỳnh Thị Ngọc, mỗi trường có trên dưới 800 học sinh. Một ngôi trường nhỏ nhưng có nhiều học sinh xuất sắc là trường Việt Ngữ Gia Đình Tự Lực của cô hiệu trưởng Trần LyLy. Cả Bắc và Nam California có đến trên 1500 thấy cô tình nguyện giảng dạy Tiếng Việt mỗi cuối tuần, cho trên 20 ngàn học sinh các cấp, được cha mẹ mang đến hằng cuối tuần. Mới đây, tại thành phố Garden Grove của Hội Thánh Tin Lành Garden Grove đã mở 1 trường Việt Ngữ mới, lấy tên là Mục Vụ Việt Ngữ Garden Grove, hiệu trưởng là cô Huỳnh Trâm Anh.
(Khai giảng trường Mục Vụ Việt Ngữ Garden Grove 2017 – Cô Hiệu Trưởng Huỳnh Trâm Anh mặc áo dài màu vàng, đứng bên phải)
Ngoại trừ phụ huynh có con em đi học tại các ngôi chùa, chứ có bao nhiêu người biết là tại các ngôi chùa này, bên cạnh khung cảnh trang nghiêm, khói hương nghi ngút của chùa, lại còn có các lớp Việt Ngữ để dạy cho con cháu phật tử, từ năm này qua năm khác!
Có lẽ ngôi chùa đầu tiên mở lớp Việt Ngữ vùng Nam California là năm 1976, Chùa Việt Nam của cố Hoà Thượng Thích Thiên Ân và cố Hoà Thượng Thích Mãn Giác. Thời gian đó Liên Đoàn Trưởng Gia Đình Phật Tử Long Hoa là thầy Ngô Văn Quy đảm trách hiệu trưởng Việt Ngữ của ngôi chùa này, rồi chùa Anoma thuộc chùa Bảo Tịnh Gardena với sự tham gia tích cực của các thầy Nguyễn Hữu Hoà, Nguyễn Tư Nhân, TVN/GĐPT Kỳ Viên có thời thầy Nguyễn Văn Vui làm hiệu trưởng, TVN/GĐPT Pháp Vân, TVN/GĐPT Chánh Kiến, TVN/GĐPT Bát Nhã, TVN/GĐPT Chánh Đạo, TVN/GĐPT Chánh Pháp, TVN/GĐPT Chân Nguyên, rồi tới trường TVN/GĐPT Gotama có thời cô Thanh Mai làm hiệu trưởng, TVN/GĐPT Hoa Nghiêm v.v… kể không hết.
Trường Việt Ngữ chùa Huệ Quang của Hoà Thượng Thích Minh Mẫn với sự chăm sóc tận tình của thầy hiệu trưởng Hồ Văn Quỳnh, một ngôi trường mà tôi nhớ mãi với lòng cảm phục, vì thầy Quỳnh luôn nhắc các em, hãy giữ truyền thống người Việt quốc gia, trong đội ngũ chỉnh tề nghiêm chỉnh chào cờ hằng tuần, trước giờ vào lớp. Thầy hiệu trưởng Hồ Văn Quỳnh tâm sự: “Từ lúc khởi đầu với vài chục em, đến nay (thời điểm của 18 năm về trước) vẫn luôn duy trì được con số đoàn sinh trên 250 em…” Điểm thứ 2 mà tôi không quên được là học cuối tuần là các em học sinh lớp lớn phải cùng với thầy cô dựng các tấm bạt để che nắng mưa. Giờ học xong, các em lại tháo các lều bạt xuống cất vào nhà kho của chùa. Nếu tôi nhớ không lầm, ngôi trường này được thành lập từ năm 1984, như vậy đã hoạt động được 34 năm. Một quãng đường dài gian khổ cho các thầy cô thiện nguyện.
(Giờ học tập của học sinh Việt Ngữ Gia Đình Phật Tử Huyền Quang tại San Bernardino, thành lập bởi cố Đại Đức Thích Phổ Hoà, nguyên là Trung tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà)
Rồi chùa Hương Tích, chùa Hướng Thiện, chùa Khuông Việt, chùa Kỳ Viên, chùa Long Hoa, chùa Phổ Đà, chùa Pháp Vân, chùa Quang Thiện, chùa Trúc Lâm, chùa Viên Thông, chùa Phật Tổ, chùa Huyền Quang nơi đâu có chùa là nơi đó có lóp Việt Ngữ. Trường Việt Ngữ của chùa Liên Hoa của Hoà Thượng Thích Chơn Thành với cô hiệu trưởng Cao Ngọc Điệp, trường Việt Ngữ Hùng Vương của Hoà Thượng Thích Quảng Thanh, trường Việt Ngữ chùa Điều Ngự của Hoà Thượng Thích Viên Lý với thầy hiệu trưởng Nguyễn Lành, và thầy nguyên hiệu trưởng Đặng Ngọc Sinh v.v… mỗi ngôi chùa đầy ắp những kỷ niệm đẹp, khó quên.
Ở ngoài tiểu bang California cũng có khá nhiều ngôi chùa với các trường Việt Ngữ mặc dù không lớn, nhưng lại rất lớn về ý chí phần đấu để tạo cơ hội cho thế hệ sau gìn giữ được tiếng mẹ đẻ. Các tiểu bang TX thì có chùa Linh Son, Chùa Phật Quang, Chùa Việt Nam, Minisota thì có chùa Quang Minh, v.v…
Một mái trường dưới sự bảo trợ của Giáo Hội Cao Đài là trường Việt Ngữ Minh Đức do thầy Ngô Thiện Đức làm hiệu trưởng cũng cho thấy sự đóng góp cũng như vai trò của các tôn giáo thật quan trọng và là những hạt giống tốt lành triển nở ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam tại hải ngoại.
(hình ảnh vui mừng trong ngày khánh thành trụ sở của Giáo Hội Cao Đài với các học sinh trường Việt Ngữ Minh Đức tại thành phố Westminster CA)
Chúng ta còn phải kể đến nhiều chục ngôi trường lớn nhỏ trong vùng Nam CA, thuộc giáo hội Công Giáo như Trường Việt Ngữ Phan Bội Châu của cộng đoàn Anaheim, TVN Nguyễn Bá Tòng của nhà thờ Saint Barbara, TVN Kitô Vua của cộng đoàn Saint Columban, TVN Costa Mesa, TVN La Vang của cộng đoàn Đức Mẹ La Vang, TVN Dũng Lạc của cộng đoàn Huntington Beach, TVN Vinh Sơn Liêm của cộng đoàn Orange, TVN Saint Policarp, TVN Tam Biên, TVN Thánh Linh, TVN Khiết Tâm, TVN Tustin, TVN Westminster, TVN Saddleback, TVN Maria Nữ Vương Gardena, TVN La Vang Reseda, TVN Lộ Đức Burbank, TVN Thánh Pherô Norwalk, TVN Thánh Pherô Torrance, TVN Phục Sinh San Gabriel, TVN Mông Triệu Arcadia, TVN Nữ Vương Các Thiên Thần, TVN Vista Oceanside, TVN Chúa Cứu Thế Long Beach… kể không hết. Giáo hội Tin Lành cũng có trên 10 ngôi trường lớn nhỏ rải rác khắp vùng Nam California nữa. Đặc biệt trường Việt Ngữ Tin Lành của Hội Thánh Tin Lành Midway City Nam CA, do Mục Sư Văn Đài quản nhiệm, một vị mục sư đáng kính không ngừng nâng đỡ, tiếp sức với Ban Đại Diện các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California, hằng năm dành nguyên cả hội trường lớn, các lớp học để tổ chức cuộc thi Chính Tả Viết Văn cho hằng trăm học sinh các trường Việt ngữ trong vùng.
Không dừng tại đây, Hoa kỳ, ngoài các lớp dạy Việt Ngữ ở các trung tâm vào cuối tuần, với khoảng 2 giờ học, đã là 1 cố gắng của phụ huynh và cũng là sự đóng góp kiên trì, âm thầm như mạch nước ngầm của các thầy cô giảng dạy. Bên cạnh đó, vẫn có một sức sống khác, đang trong chiều hướng trỗi dậy khá hào hứng. Đó là các lớp Việt Ngữ trong dòng chính của hệ thống giáo dục Hoa kỳ.
Các đại học lớn tại Hoa Kỳ như University of Washington, University of Florida, University of Michigan, Arizona State University, Columbia University, Cornell University, Yale University, Havard University và trong tiểu bang California như UC Berkeley, UC Los Angeles, UC Irvine, UC Riverside, CSU Fullerton, Coastline Community College, Golden West College, Orange Coast College, … Và ở cấp trung học như tại học khu East Side Union High School District vùng San Jose, các trường Westminster High School và La Quinta HS của học khu Westminster, Bolsa Grande HS và Pacifica HS của học khu Garden Grove v.v… đều có lớp Tiếng Việt như là những lớp ngoại ngữ chính thức trong hệ thống giáo dục công lập.
Một chương trình mới hơn cả, tại học khu Westminster trong 3 năm vừa qua, đã mở ra 1 lớp học song ngữ ở cấp tiểu học. Có nghĩa là các em học sinh ghi danh lớp này, khi bước chân đầu đời đi vào ngưỡng cửa học đường, sẽ được nghe, được viết, được nói, được đọc bằng 2 ngôn ngữ Anh Việt trong giờ học (English/Vietnamese Dual Language Immersion Program). Đây là 1 chương trình song ngữ đầu tiên được mở ra, giảng dạy thử nghiệm tại California. Năm thứ ba (2018) của chương trình này đã đưa đến sự thành công rõ nét với 160 học sinh. Tháng 9, 2018 cho niên học mới này sẽ có thêm 4 lớp cấp mẫu giáo, và 3 lớp mẫu giáo sẽ thành 3 lớp cấp 1, rồi tương tự nâng lên 2 lớp cấp 2, 2 lớp cấp 3. Cô giáo đầu tiên tham gia chương trình của năm đầu 2015, phụ trách lớp mẫu giáo tại trường DeMille Elementary là cô giáo Đặng Quỳnh Hương, tiếp theo là cô giáo Vũ Quỳnh Trâm tất cả đều tốt nghiệp cao học ngành giáo dục Hoa Kỳ. Từ 40 học sinh của năm đầu, đến niên học tháng 9 tới, số ghi danh của học sinh sẽ lên 240 em. Đây là dấu hiệu rất tốt, nói lên giá trị của chương trình và là niềm tin tưởng đặc biệt mà phụ huynh đã dành cho chương trình này. Chúng ta cũng nên có 1 lời cám ơn đến bà Hiệu trưởng Shannon Villanueva của DeMille Elementary school và TS Renae Bryant Giám đốc điều hành chương trình song ngữ của học khu Westminster trước đây, đã luôn tìm cách thúc đẩy chương trình song ngữ Anh/ Việt để mỗi ngày tiến xa và đưa đến sự thành công đáng ca ngợi trong học khu Westminster.
(Trình diễn văn nghệ hào hứng của học sinh tiểu học Demille Westminster, CA theo học chương trình English/Vietnamese Dual Language Immersion)
Nối gót chương trình English/Vietnamese Dual Language Immersion tại học khu Westminster, thì học khu Garden Grove cũng đã bắt đầu 1 chương trình tương tự vào đầu niên khoá 2017-18. Và đến giờ này học khu Garden Grove đã là học khu lớn, có các lớp Việt Ngữ các trường trung tiểu học nhiều hơn cả. Tại học khu Anaheim, khi TS Renae Bryant về nhận công việc mới trong học khu, 1 kế hoạch phát triển chương trình dạy tiếng Việt các cấp cũng đang được học khu khai triển.
Những năm gần đây, tại đại học Cal State University, Fullerton (National Resource Center for Asian Languages – NRCAL) điều hành bởi TS Natalie Trần còn lập ra 1 chương trình đào tạo các giáo viên dạy tiếng Việt nhằm cung cấp cho nhu cầu giảng dạy tiếng Việt cấp tiểu học, trung học các nơi.
Nhìn vào chiều hướng phát triển như thế, chúng ta thấy việc soạn thảo sách giáo khoa, sách nghiên cứu đã là 1 nhu cầu rất lớn nhằm cung cấp cho thầy cô, sinh viên học sinh và phu huynh.
Hiện, Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ đã có 1 bộ sách giáo khoa 8 cuốn được trên 300 ngôi trường trên Hoa Kỳ dùng dạy trong các lớp học trong cộng đồng Việt Nam vào mỗi cuối tuần. Bộ sách này cũng đang được các thầy cô học khu Westminster và Anaheim sẽ dùng trong các lớp dạy song ngữ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần có thêm những bộ sách giáo khoa khác, bổ túc những ứng dụng phương pháp mới của bộ giáo dục California đề ra, như phương pháp Common Core chẳng hạn.
(Bộ sách Giáo Khoa Việt Ngữ và Lịch Sử Bằng Tranh do Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam CA biên soạn/ hiệu đính và phát hành)
Một nhu cầu khác được đặt ra là các sách tham khảo, sách tài liệu về Chính Tả, Ngữ Vựng, Từ Điển vẫn là 1 chỗ trống, rất thưa thớt, cần được đáp ứng. Tài liệu về Chính Tả chú trọng đến cách viết, cách để dấu cho chính xác, tương tự như tra cứu chữ trong từ điển, nhưng chúng chú trọng nhiều đến những nguyên tắc căn bản của Tiếng Việt, như vị trí đặt những dấu sắc, dấu huyền, dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng, dấu “â”, dấu “ă” trong một chữ, những cách dùng với mẫu tự “y” với “i”; các phụ âm ghép “ch” với “tr”; các phụ âm đầu “s” với “x” v.v… giúp chúng ta viết đúng, nói đúng tiếng Việt.
Việt Nam với trên 96 triệu dân, dùng tiếng Việt là chính. Là tiếng nói có số người dùng nhiều để trao đổi, giao dịch thương mại hằng ngày, đứng hàng thứ 15 trên hơn 100 ngôn ngữ khác trên thế giới. Những đóng góp sự hiểu biết của cộng đồng người Việt trên 3.5 triệu người hải ngoại sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát triển ngôn ngữ Việt Nam. Tiếng Việt không còn thuần tuý dành cho con em Việt Nam mà còn đi xa hơn trong việc trao đổi giao dịch, sáng tác, truyền bá văn học nghệ thuật, cung cấp cho nhu cầu sử dụng trên bình diện quốc tế. Chính bởi thế, tiếng Việt cần được sự đồng thuận trên một số căn bản nào đó, mà việc áp dụng quy luật phiên âm quốc tế trong từ điển là một thí dụ.
(Sổ Tay Chính Tả Tiếng Việt gồm 3 tập, do Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt – Nhóm Soạn Từ Điển biên soạn và phát hành)
Đây là 1 nỗ lực rất lớn của Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt Nhóm Thực Hiện Từ Điển, của các đoàn thể, tổ chức văn hoá, của các thầy cô liên quan tới việc giảng dạy Việt Ngữ các nơi, của từ tổ chức Ban Đại Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ (TAVIET-LCS), cũng như của các nhà giáo dục, văn hoá, trí thức, truyền thông tại hải ngoại. Hy vọng sự đóng góp có tính cách tổng hợp này sẽ đáp lại nhu cầu cần có, góp phần cho sự phát triển ngôn ngữ trong sáng, thể hiện nét đẹp văn hoá, thêm niềm tự hào tình tự dân tộc, gìn giữ ngôn ngữ, nuôi dưỡng lịch sử oai hùng để mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mọi thế hệ con dân Việt.
Nguyễn Văn Khoa -The Association of The Vietnamese Language and Culture Schools of Southern California (TAVIET-LCS) Ban Đại Diện các Trung Tâm Viêt Ngữ Nam CA -Thành Viên Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt
Câu trong huy hiệu lày ý từ bài diễn thuyết của Học gỉa Phạm Quỳnh sau đây:
Bài diễn thuyết bằng quốc văn của ông Phạm Quỳnh
04:12′ CH – Thứ tư, 07/12/2016
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”
(Phạm Quỳnh) Bài diễn thuyết về Truyện Kiều này được Phạm Quỳnh đọc nhân lễ kỷ niệm ngày giỗ Nguyễn Du vào ngày 8 tháng 12 năm 1924, tức ngày mồng 10 tháng 8 năm Giáp Tý do Hội Khai trí tiến đức của ông tổ chức. Bài được đăng lại tại Tạp chí Nam Phong số 86. Bài diễn thuyết này mở đầu cho một cuộc tranh cãi nổi tiếng vào đầu thế kỷ XX, được người sau mệnh danh là Vụ án truyện Kiều…
Phạm Quỳnh (17 tháng 12 năm 1892 – 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp – để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh: Hoa Đường, Hồng Nhân.
Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến Thưa các Ngài, Hôm nay là ngày giỗ cụ Tiên-điền Nguyễn Tiên-sinh, là bậc đại-thi-nhân của nước Nam ta, đã làm ra bộ văn-chương tuyệt-tác là truyện Kim-Vân-Kiều.
Ban Văn-học Hội Khai-trí chúng tôi muốn nhân ngày giỗ này đặt một cuộc kỷ-niệm để nhắc lại cho quốc-dân nhớ đến công-nghiệp[1] một người đã gây-dựng cho quốc-âm ta thành văn-chương, để lại cho chúng ta một cái « hương hỏa » rất quí-báu, đời đời làm vẻ-vang cho cả giống-nòi.
Chúng tôi thiết-nghĩ một bậc có công với văn-hóa nước nhà như thế, không phải là ông tổ riêng của một nhà một họ nữa, mà là ông tổ chung của cả nước; ngày giỗ ngài không phải là ngày kỷ-niệm riêng của một nhà một họ nữa, chính là ngày kỷ-niệm chung của cả nước.
Hiện nay suốt quốc-dân ta, trên từ hàng thượng-lưu học-thức, dưới đến kẻ lam-lũ làm ăn, bất-cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết truyện Kiều, ai ai cũng thuộc truyện Kiều, ai ai cũng kể truyện Kiều, ai ai cũng ngâm truyện Kiều, như vậy thời ai ai cũng đều hưởng cái công-nghiệp của Cụ Tiên-điền ta, ai ai cũng phải nhớ ngày giỗ Cụ và nghĩ đến cái ơn của Cụ tác-thành cho tiếng nước nhà.
Muốn cảm cái ơn ấy cho đích-đáng, hẵng thử giả-thiết Cụ Tiên-điền không xuất-thế[2], Cụ Tiên-điền có xuất-thế mà quyển truyện Kiều không xuất-thế, quyển truyện Kiều có xuất-thế mà vì cớ gì không lưu-truyền, thời tình-cảnh tiếng An-Nam đến thế nào, tình-cảnh dân-tộc ta đến thế nào?
Văn-chương người ta thiên kinh vạn quyển, dẫu có thiếu mất một quyển cũng chẳng hại gì. Văn-chương mình chỉ độc có một quyển, vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh-thư[3] Phúc-âm[4] của cả một dân-tộc, ví lại khuyết nốt thì dân-tộc ấy đến thế nào?
Than ôi! mỗi lần nghĩ tới mà không khỏi rùng mình, chột dạ, sửng-sốt, rụng-rời, tưởng như hòn ngọc ở trên tay bỗng rơi xuống vỡ tan-tành vậy. Rồi mới tỉnh ra, sực nhớ đến mấy câu Kiều, vỗ bàn đập ghế, gõ dịp[5] rung đùi, lên giọng cao-ngâm:
Lơ-thơ tơ liễu buông mành, Con oanh học nói trên cành mỉa-mai,
hay là:
Phong-trần mài một lưỡi gươm, Những phường giá áo túi cơm xá gì,
bỗng thấy trong lòng vui-vẻ, trong dạ vững-vàng, muốn nhẩy muốn múa, muốn reo muốn hò, muốn ngạo-nghễ với non sông mà tự-phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!…
Có nghĩ cho xa-xôi, cho thấm-thía, mới hiểu rằng truyện Kiều đối với vận-mệnh nước ta có một cái quí-giá vô-ngần.
Một nước không thể không có quốc-hoa, truyện Kiều là quốc-hoa của ta; một nước không thể không có quốc-túy, truyện Kiều là quốc-túy của ta; một nước không thể không có quốc-hồn, truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều là cái « văn-tự »[6] của giống Việt-Nam ta đã « trước-bạ »[7] với non sông đất nước này. Trong mấy nghìn năm ta chôn rau[8] cắt rốn, gửi thịt gửi xương ở cõi đất này, mà ta vẫn hình như một giống ăn trọ ở nhờ, đối với đất nước non sông vẫn chưa từng có một cái văn-tự văn-khế phân-minh, chứng-nhận cho ta có cái quyền sở-hữu chính-đáng. Mãi đến thế-kỷ mới rồi mới có một đấng quốc-sĩ[9], vì nòi-giống, vì đồng-bào, vì tổ tiên, vì hậu-thế, rỏ máu làm mực, « tá-tả »[10] một thiên văn-khế tuyệt-bút, khiến cho giống An-Nam được công-nhiên[11], nghiễm-nhiên[12], rõ-ràng, đích-đáng làm chủ-nhân-ông một cõi sơn-hà gấm vóc.
Đấng quốc-sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên-điền ta vậy. Thiên văn-khế ấy là gì? Là quyển truyện Kiều ta vậy.
Gẫm trong người ấy báu này, Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
Báu ấy mà lọt đến tay ta, thật cũng là một cái phúc-duyên cho ta, nhưng báu ấy ở trong tay Cụ lại chính là một cái túc duyên[13] của Cụ. Thiên văn-tự tuyệt-bút kia là gồm bao nhiêu giọt máu, bao nhiêu giọt lệ kết-tinh lại mà thành ra, những khi đêm khuya thanh-vắng vẫn thường tỉ-tê thánh-thót trong lòng ta, như
Giọt sương gieo nặng cành xuân la-đà
vậy.
Cái áng văn-chương tuyệt-tác cho người đời đó, an-tri lại không phải là một thiên lịch-sử thống-thiết của tác-giả?
Truyện Kiều quan-hệ với thân-thế Cụ Tiên-điền thế nào, lát nữa ông Trần Trọng-Kim sẽ diễn-thuyết tường để các ngài nghe.
Nay tôi chỉ muốn biểu-dương cái giá-trị của truyện Kiều đối với văn-hóa nước ta, đối với văn-học thế-giới, để trong buổi kỷ-niệm này đồng-nhân cảm biết cái công-nghiệp của bậc thi-bá nước ta lớn-lao to-tát là dường nào.
Đối với văn-hóa nước nhà, cái địa-vị truyện Kiều đã cao-quí như thế; đối với văn-học thế-giới cái địa-vị truyện Kiều thế nào?
Không thể so-sánh với văn-chương khắp các nước, ta hẵng so-sánh với văn-chương hai nước có liền-tiếp quan-hệ với ta, là văn-chương Tàu và văn-chương Pháp. Văn-chương Tàu thật là mông-mênh bát-ngát, như bể như rừng. Nhưng trong rừng văn bể sách đó, tưởng cũng ít quyển sánh được với truyện Kiều, mà xét cho kỹ có lẽ không có sách nào giống như truyện Kiều. Gốc truyện tuy do một bộ tiểu-thuyết Tàu mà ra, nhưng vào tay Cụ Tiên-điền ta biến-hóa hẳn, siêu-việt ra ngoài cả lề-lối văn-chương Tàu, đột-ngột như một ngọn cô-phong ở giữa đám quần-sơn vạn-hác vậy. Có người sánh truyện Kiều với Li-tao, nhưng Li-tao là một bài than, từ đầu đến cuối toàn một giọng bi-đát thảm-thương, so với Cung-oán của ta có lẽ đúng hơn. Có người lại sánh với Tây-xương, nhưng Tây-xương là một bản hát, từ-điệu có véo-von, thanh-âm có réo-rắt, nhưng chẳng qua là một mớ ca-từ cho bọn con hát, không phải là một nền văn-chương chân-chính. Cứ thực thì truyện Kiều dẫu là đầm-thấm cái tinh-thần của văn-hóa Tàu, dẫu là dung-hòa những tài-liệu của văn-chương Tàu, mà có một cái đặc-sắc văn-chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự « kết-cấu ». Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ bài văn nho-nhỏ ngăn-ngắn, phàm làm sách chỉ biết cách biên-tập, không sành cách kết-cấu. Biên-tập là cóp-nhặt mà đặt liền lại; kết-cấu là thu-xếp mà gây-dựng lên, thế nào cho thành một cái toàn-bức các bộ-phận điều-hòa thích-hợp với nhau, không thêm bớt được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn-bức như thế, mà là một bức tranh thế-thái nhân-tình vẽ sự đời như cái gương tầy liếp vậy.
Xét về cách kết-cấu thì văn-chương nước Pháp lại là sở-trường lắm. Cho nên truyện Kiều có thể sánh với những áng thi-văn kiệt-tác của quí-quốc, như một bài bi-kịch của Racine hay một bài văn tế của Bossuet vậy. Đó là nói về cái thể-tài văn-chương. Còn về đường tinh-thần thời trong văn-học Pháp có hai cái tinh-thần khác nhau, là tinh-thần cổ-điển và tinh-thần lãng-mạn. Tinh-thần cổ-điển là trọng sự lề-lối, sự phép-tắc; tinh-thần lãng-mạn là trong sự khoáng-đãng, sự li-kỳ. Truyện Kiều gồm được cả hai cái tinh-thần ấy, vì vừa có cái đạo-vị thâm-trầm của Phật-học, vừa có cái nghĩa-lý sáng-sủa của Nho-học, vừa có cái phong-thú tiêu-dao của Trang Lão, lấy lẽ phải ông Khổng mà chế lại sự thần-bí của nhà chùa, sự khoáng-dật của hai họ. Nhưng mà ngay trong văn-chương nước Pháp tưởng cũng không có sách nào giống hẳn như truyện Kiều, vì truyện Kiều có một cái đặc-sắc mà những nền kiệt-tác trong văn-chương Pháp không có. Đặc-sắc ấy là sự « phổ-thông ». Phàm đại-văn-chương, không những ở nước Pháp, ở nước nào cũng vậy, chỉ có những người thượng-lưu học-thức mới thưởng-giám được, kẻ bình-dân không biết tới. Người Pháp không phải là ai ai cũng biết đọc kịch Racine hay là đọc văn Bossuet. Người Nam thời ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, « lẩy » Kiều để ứng-dụng trong sự ngôn-ngữ thường, kẻ thông-minh hiểu cách thâm-trầm, kẻ tầm-thường hiểu cách thô-thiển, nhưng ngâm-nga lên thảy đều lấy làm vui tai, sướng miệng, khoái trí, tỉnh hồn.
Thử hỏi cổ kim Đông Tây đã có một áng văn-chương nào cảm người được sâu và được rộng như thế chưa. Tưởng dễ chỉ có một truyện Kiều ta là có thể tự-cao với thế-giới là văn-chương chung của cả một dân-tộc 18,20 triệu người, già, trẻ, lớn, bé, giỏi, dốt, sang, hèn, đều thuộc lòng và đều biết hay cả.
Như vậy thì truyện Kiều, không những đối với văn-hóa nước nhà, mà đối với văn-học thế-giới cũng chiếm được một địa-vị cao-quí.
Văn-chương ta chỉ có một quyển sách mà sách ấy đủ làm cho ta vẻ-vang với thiên-hạ, tưởng cũng là một cái kỳ-công có một trong cõi văn thế-giới vậy.
Cái kỳ-công ấy lại dũ-kỳ nữa là ngẫu-nhiên mà dựng ra, đột-nhiên mà khởi lên, trước không có người khai đường mở lối, sau không có kẻ nối gót theo chân, đột-ngột giữa trời Nam như cái đồng-trụ để tiêu-biểu tinh-hoa của cả một dân-tộc. Phàm văn-chương các nước, cho được gây nên một nền thi-văn kiệt-tác, phải bao nhiêu nhà thơ, bao nhiêu nhà văn, trong bao nhiêu năm lao-công lục-lực, vun-trồng bón-xới mới thành được. Nay bậc thi-bá nước ta, đem cái thiên-tài ít có trong trời đất, đúc cái khí thiêng bàng-bạc trong non sông, một mình làm nên cái thiên-cổ-kỳ-công đó, dẫu khách thế-giới cũng phải bình-tình mà cảm-phục, huống người nước Nam được trực-tiếp hưởng-thụ cái ơn-huệ ấy lại chẳng nên ghi-tạc trong lòng mà thành-tâm thờ-kính hay sao?
Cuộc kỷ-niệm hôm nay là chủ-ý tỏ lòng quốc-dân sùng-bái cảnh-mộ Cụ Tiên-điền ta; lại có các quí-hội-viên Tây và các quí-quan đến dự cuộc là để chứng-kiến cho tấm lòng thành-thực đó. Nhưng còn có một cái ý-nghĩa nữa, là nhân ngày giỗ này, đốt lò hương, so phím đàn, chiêu hồn quốc-sĩ.
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
áng tinh-trung thấp-thoáng dưới bóng đèn, chập-chừng trên ngọn khói, xin chứng-nhận cho lời thề của đồng-nhân đây. Thề rằng: « Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu-sinh xin rầu lòng giốc chí cố gia-công trau-chuốt lấy tiếng quốc-âm nhà, cho quốc-hoa ngày một rực-rỡ, quốc-hồn ngày một tỉnh-tao, quốc-bộ ngày một tấn-tới, quốc-vận ngày một vẻ-vang, ngõ-hầu khỏi phụ cái chi hoài-bão của tiên-sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây! » Chú thích:
1) công nghiệp: Công lao và sự nghiệp đối với xã hội. 2) xuất thế: ra đời, nói một cách trân trọng. 3) Thánh thư: sách Thánh. 4) Phúc âm: Tin lành. 5) dịp: nhịp. 6) văn tự: giấy tờ do hai bên thỏa thuận ký kết mua bán. 7) trước bạ: đăng ký văn tự với một cơ quan nhà nước để có tính pháp lý. 8) rau: nhau. 9) quốc sĩ: người tài nổi tiếng trong cả nước. 10) tá tả: viết dùm người khác. 11) công nghiên: một cách công khai. 12) nghiễm nhiên: (thực hiện) một cách tự nhiên và đàng hoàng, điều mà trước đó không ai ngờ. 13) túc duyên: duyên sẵn từ kiếp trước.