Nguyễn Văn Khoa
Sau 1975, người Việt định cư tại hải ngoại mỗi ngày thêm nhiều. Những lớp người tị nạn ở giai đoạn đầu chỉ mang theo những ký ức, ngôn ngữ và văn hoá để khởi sự cho một cuộc sống mới. Ngôn ngữ không chỉ để duy trì tiếng nói trong lớp tuổi của họ mà còn là một ước vọng, sao cho con cái gìn giữ được ngôn ngữ, làm căn bản như là một người Việt Nam.
Chúng ta biết, ngôn ngữ luôn đi trước để hình thành ra văn hoá. Ngôn ngữ là chìa khoá mở cánh cửa văn hoá của một dân tộc. Khi ngôn ngữ được sử dụng một cách trong sáng sẽ tạo ra một dân tộc có văn hoá đẹp, có 1 nền văn minh riêng và thể hiện sự hài hoà của xã hội. Ngôn ngữ trong sáng dẫn đưa dân tộc đến sự hùng mạnh, quốc gia phú cường, độc lập, tự chủ và mọi người dân sống thêm hạnh phúc.
Từ khái niệm này, người Việt hải ngoại dùng hết nỗ lực thúc đẩy chương trình giảng dạy Việt Ngữ trong con em: Ở Úc Châu, được nền giáo dục đa ngôn ngữ và văn hoá đãi ngộ, nên các chương trình dạy tiếng Việt phát triển mạnh mẽ. Có trường lên 2000 học sinh. Tại Âu Châu cũng có các trường Việt Ngữ, không lớn nhưng cũng khá phổ biến. Tại Á Châu như Thái Lan, Phi Luật Tân cũng có các nơi dạy tiếng Việt phát xuất trong cộng đồng người Việt. Điều thú vị là có 1 làng nhỏ Việt Nam tại Phi Châu cũng tìm cách giữ tiếng Việt trong con cháu để duy trì tiếng nói, mặc dù họ đã sống gần 100 năm, qua hằng hai, ba thế hệ.
Tại Mỹ Châu, gồm Canada và Hoa Kỳ, các lớp tiếng Việt đã hình thành rất lâu, lâu bằng tuổi với thời gian định cư của cha ông đi trước. Thời gian qua, rải rác đây đó có nhiều ngôi trường tổ chức lễ kỷ niệm thành lập 20 năm, thành lập 25 năm, thành lập 30 năm và ngay cả kỷ niệm thành lập 35 năm. Hơn một thế hệ đã qua, hơn hai thế hệ trẻ em đã chào đời, nhưng ngôn ngữ Việt vẫn không ngừng lớn mạnh, luôn đi theo với sức sống của tuổi trẻ. Khi bạn đọc những dòng chữ này, bạn cũng nghe nói hoặc đã tham dự chương trình Huấn Luyện và Tu Nghiệp Sư Phạm tại Nam California lần thứ 30 do Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California tổ chức, cũng tại đại học nơi tổ chức Hội Nghị Thống Nhất Chính Tả Tiếng Việt này.

(Hình sinh hoạt của các em học sinh các lớp lớn, thuộc Trường Việt Ngữ Đức Mẹ La Vang Arlinton TX, người đứng thứ 3 của hàng thứ 2 tính từ trái, mặc áo xanh là cô giáo Đào Thy)
Các tiểu bang nhiều người Việt như Denver Colorado, hơn 10 năm trước, có một giáo xứ công giáo đã xây dựng 1 ngôi thánh đường và đặt tên là Trường Giáo Lý Việt Ngữ Thánh Da-minh Savio với 29 phòng học, để dạy giáo lý và Việt Ngữ cho gần 1000 học sinh. Rồi tiếp theo các nơi tại Texas như Trường Việt Ngữ Đức Mẹ La Vang Arlinton TX, cũng trên 1000 học sinh , tại Portland Oregon, tại Seattle Washington cũng có những ngôi trường có sĩ số học sinh tương tự.

(Giờ sinh hoạt của các em học sinh Trường Giáo Lý Việt Ngữ Thánh Da-minh Savio, Denver CO, trường với trên 1000 học sinh)
Tại California, người Việt sống ở hải ngoại là đông đảo hơn cả. Miền Bắc và miền Nam California có đến trên 100 ngôi trường, hoặc trung tâm dạy tiếng Việt lớn nhỏ. Có trường sĩ số học sinh lên trên 1000, như tại trường Văn Lang San Jose. Nam California có 2 trường lớn như Trung Tâm Văn Hoá Việt Nam với công đầu là thầy Huỳnh Phổ, Trung Tâm Văn Hoá Hồng Bàng với nỗ lực không ngừng của cô Huỳnh Thị Ngọc, mỗi trường có trên dưới 800 học sinh. Một ngôi trường nhỏ nhưng có nhiều học sinh xuất sắc là trường Việt Ngữ Gia Đình Tự Lực của cô hiệu trưởng Trần LyLy. Cả Bắc và Nam California có đến trên 1500 thấy cô tình nguyện giảng dạy Tiếng Việt mỗi cuối tuần, cho trên 20 ngàn học sinh các cấp, được cha mẹ mang đến hằng cuối tuần. Mới đây, tại thành phố Garden Grove của Hội Thánh Tin Lành Garden Grove đã mở 1 trường Việt Ngữ mới, lấy tên là Mục Vụ Việt Ngữ Garden Grove, hiệu trưởng là cô Huỳnh Trâm Anh.

(Khai giảng trường Mục Vụ Việt Ngữ Garden Grove 2017 – Cô Hiệu Trưởng Huỳnh Trâm Anh mặc áo dài màu vàng, đứng bên phải)
Ngoại trừ phụ huynh có con em đi học tại các ngôi chùa, chứ có bao nhiêu người biết là tại các ngôi chùa này, bên cạnh khung cảnh trang nghiêm, khói hương nghi ngút của chùa, lại còn có các lớp Việt Ngữ để dạy cho con cháu phật tử, từ năm này qua năm khác!
Có lẽ ngôi chùa đầu tiên mở lớp Việt Ngữ vùng Nam California là năm 1976, Chùa Việt Nam của cố Hoà Thượng Thích Thiên Ân và cố Hoà Thượng Thích Mãn Giác. Thời gian đó Liên Đoàn Trưởng Gia Đình Phật Tử Long Hoa là thầy Ngô Văn Quy đảm trách hiệu trưởng Việt Ngữ của ngôi chùa này, rồi chùa Anoma thuộc chùa Bảo Tịnh Gardena với sự tham gia tích cực của các thầy Nguyễn Hữu Hoà, Nguyễn Tư Nhân, TVN/GĐPT Kỳ Viên có thời thầy Nguyễn Văn Vui làm hiệu trưởng, TVN/GĐPT Pháp Vân, TVN/GĐPT Chánh Kiến, TVN/GĐPT Bát Nhã, TVN/GĐPT Chánh Đạo, TVN/GĐPT Chánh Pháp, TVN/GĐPT Chân Nguyên, rồi tới trường TVN/GĐPT Gotama có thời cô Thanh Mai làm hiệu trưởng, TVN/GĐPT Hoa Nghiêm v.v… kể không hết.
Trường Việt Ngữ chùa Huệ Quang của Hoà Thượng Thích Minh Mẫn với sự chăm sóc tận tình của thầy hiệu trưởng Hồ Văn Quỳnh, một ngôi trường mà tôi nhớ mãi với lòng cảm phục, vì thầy Quỳnh luôn nhắc các em, hãy giữ truyền thống người Việt quốc gia, trong đội ngũ chỉnh tề nghiêm chỉnh chào cờ hằng tuần, trước giờ vào lớp. Thầy hiệu trưởng Hồ Văn Quỳnh tâm sự: “Từ lúc khởi đầu với vài chục em, đến nay (thời điểm của 18 năm về trước) vẫn luôn duy trì được con số đoàn sinh trên 250 em…” Điểm thứ 2 mà tôi không quên được là học cuối tuần là các em học sinh lớp lớn phải cùng với thầy cô dựng các tấm bạt để che nắng mưa. Giờ học xong, các em lại tháo các lều bạt xuống cất vào nhà kho của chùa. Nếu tôi nhớ không lầm, ngôi trường này được thành lập từ năm 1984, như vậy đã hoạt động được 34 năm. Một quãng đường dài gian khổ cho các thầy cô thiện nguyện.

(Giờ học tập của học sinh Việt Ngữ Gia Đình Phật Tử Huyền Quang tại San Bernardino, thành lập bởi cố Đại Đức Thích Phổ Hoà, nguyên là Trung tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà)
Rồi chùa Hương Tích, chùa Hướng Thiện, chùa Khuông Việt, chùa Kỳ Viên, chùa Long Hoa, chùa Phổ Đà, chùa Pháp Vân, chùa Quang Thiện, chùa Trúc Lâm, chùa Viên Thông, chùa Phật Tổ, chùa Huyền Quang nơi đâu có chùa là nơi đó có lóp Việt Ngữ. Trường Việt Ngữ của chùa Liên Hoa của Hoà Thượng Thích Chơn Thành với cô hiệu trưởng Cao Ngọc Điệp, trường Việt Ngữ Hùng Vương của Hoà Thượng Thích Quảng Thanh, trường Việt Ngữ chùa Điều Ngự của Hoà Thượng Thích Viên Lý với thầy hiệu trưởng Nguyễn Lành, và thầy nguyên hiệu trưởng Đặng Ngọc Sinh v.v… mỗi ngôi chùa đầy ắp những kỷ niệm đẹp, khó quên.
Ở ngoài tiểu bang California cũng có khá nhiều ngôi chùa với các trường Việt Ngữ mặc dù không lớn, nhưng lại rất lớn về ý chí phần đấu để tạo cơ hội cho thế hệ sau gìn giữ được tiếng mẹ đẻ. Các tiểu bang TX thì có chùa Linh Son, Chùa Phật Quang, Chùa Việt Nam, Minisota thì có chùa Quang Minh, v.v…
Một mái trường dưới sự bảo trợ của Giáo Hội Cao Đài là trường Việt Ngữ Minh Đức do thầy Ngô Thiện Đức làm hiệu trưởng cũng cho thấy sự đóng góp cũng như vai trò của các tôn giáo thật quan trọng và là những hạt giống tốt lành triển nở ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam tại hải ngoại.

(hình ảnh vui mừng trong ngày khánh thành trụ sở của Giáo Hội Cao Đài với các học sinh trường Việt Ngữ Minh Đức tại thành phố Westminster CA)
Chúng ta còn phải kể đến nhiều chục ngôi trường lớn nhỏ trong vùng Nam CA, thuộc giáo hội Công Giáo như Trường Việt Ngữ Phan Bội Châu của cộng đoàn Anaheim, TVN Nguyễn Bá Tòng của nhà thờ Saint Barbara, TVN Kitô Vua của cộng đoàn Saint Columban, TVN Costa Mesa, TVN La Vang của cộng đoàn Đức Mẹ La Vang, TVN Dũng Lạc của cộng đoàn Huntington Beach, TVN Vinh Sơn Liêm của cộng đoàn Orange, TVN Saint Policarp, TVN Tam Biên, TVN Thánh Linh, TVN Khiết Tâm, TVN Tustin, TVN Westminster, TVN Saddleback, TVN Maria Nữ Vương Gardena, TVN La Vang Reseda, TVN Lộ Đức Burbank, TVN Thánh Pherô Norwalk, TVN Thánh Pherô Torrance, TVN Phục Sinh San Gabriel, TVN Mông Triệu Arcadia, TVN Nữ Vương Các Thiên Thần, TVN Vista Oceanside, TVN Chúa Cứu Thế Long Beach… kể không hết. Giáo hội Tin Lành cũng có trên 10 ngôi trường lớn nhỏ rải rác khắp vùng Nam California nữa. Đặc biệt trường Việt Ngữ Tin Lành của Hội Thánh Tin Lành Midway City Nam CA, do Mục Sư Văn Đài quản nhiệm, một vị mục sư đáng kính không ngừng nâng đỡ, tiếp sức với Ban Đại Diện các Trung Tâm Việt Ngữ Nam California, hằng năm dành nguyên cả hội trường lớn, các lớp học để tổ chức cuộc thi Chính Tả Viết Văn cho hằng trăm học sinh các trường Việt ngữ trong vùng.
Không dừng tại đây, Hoa kỳ, ngoài các lớp dạy Việt Ngữ ở các trung tâm vào cuối tuần, với khoảng 2 giờ học, đã là 1 cố gắng của phụ huynh và cũng là sự đóng góp kiên trì, âm thầm như mạch nước ngầm của các thầy cô giảng dạy. Bên cạnh đó, vẫn có một sức sống khác, đang trong chiều hướng trỗi dậy khá hào hứng. Đó là các lớp Việt Ngữ trong dòng chính của hệ thống giáo dục Hoa kỳ.
Các đại học lớn tại Hoa Kỳ như University of Washington, University of Florida, University of Michigan, Arizona State University, Columbia University, Cornell University, Yale University, Havard University và trong tiểu bang California như UC Berkeley, UC Los Angeles, UC Irvine, UC Riverside, CSU Fullerton, Coastline Community College, Golden West College, Orange Coast College, … Và ở cấp trung học như tại học khu East Side Union High School District vùng San Jose, các trường Westminster High School và La Quinta HS của học khu Westminster, Bolsa Grande HS và Pacifica HS của học khu Garden Grove v.v… đều có lớp Tiếng Việt như là những lớp ngoại ngữ chính thức trong hệ thống giáo dục công lập.
Một chương trình mới hơn cả, tại học khu Westminster trong 3 năm vừa qua, đã mở ra 1 lớp học song ngữ ở cấp tiểu học. Có nghĩa là các em học sinh ghi danh lớp này, khi bước chân đầu đời đi vào ngưỡng cửa học đường, sẽ được nghe, được viết, được nói, được đọc bằng 2 ngôn ngữ Anh Việt trong giờ học (English/Vietnamese Dual Language Immersion Program). Đây là 1 chương trình song ngữ đầu tiên được mở ra, giảng dạy thử nghiệm tại California. Năm thứ ba (2018) của chương trình này đã đưa đến sự thành công rõ nét với 160 học sinh. Tháng 9, 2018 cho niên học mới này sẽ có thêm 4 lớp cấp mẫu giáo, và 3 lớp mẫu giáo sẽ thành 3 lớp cấp 1, rồi tương tự nâng lên 2 lớp cấp 2, 2 lớp cấp 3. Cô giáo đầu tiên tham gia chương trình của năm đầu 2015, phụ trách lớp mẫu giáo tại trường DeMille Elementary là cô giáo Đặng Quỳnh Hương, tiếp theo là cô giáo Vũ Quỳnh Trâm tất cả đều tốt nghiệp cao học ngành giáo dục Hoa Kỳ. Từ 40 học sinh của năm đầu, đến niên học tháng 9 tới, số ghi danh của học sinh sẽ lên 240 em. Đây là dấu hiệu rất tốt, nói lên giá trị của chương trình và là niềm tin tưởng đặc biệt mà phụ huynh đã dành cho chương trình này. Chúng ta cũng nên có 1 lời cám ơn đến bà Hiệu trưởng Shannon Villanueva của DeMille Elementary school và TS Renae Bryant Giám đốc điều hành chương trình song ngữ của học khu Westminster trước đây, đã luôn tìm cách thúc đẩy chương trình song ngữ Anh/ Việt để mỗi ngày tiến xa và đưa đến sự thành công đáng ca ngợi trong học khu Westminster.

(Trình diễn văn nghệ hào hứng của học sinh tiểu học Demille Westminster, CA theo học chương trình English/Vietnamese Dual Language Immersion)
Nối gót chương trình English/Vietnamese Dual Language Immersion tại học khu Westminster, thì học khu Garden Grove cũng đã bắt đầu 1 chương trình tương tự vào đầu niên khoá 2017-18. Và đến giờ này học khu Garden Grove đã là học khu lớn, có các lớp Việt Ngữ các trường trung tiểu học nhiều hơn cả. Tại học khu Anaheim, khi TS Renae Bryant về nhận công việc mới trong học khu, 1 kế hoạch phát triển chương trình dạy tiếng Việt các cấp cũng đang được học khu khai triển.
Những năm gần đây, tại đại học Cal State University, Fullerton (National Resource Center for Asian Languages – NRCAL) điều hành bởi TS Natalie Trần còn lập ra 1 chương trình đào tạo các giáo viên dạy tiếng Việt nhằm cung cấp cho nhu cầu giảng dạy tiếng Việt cấp tiểu học, trung học các nơi.
Nhìn vào chiều hướng phát triển như thế, chúng ta thấy việc soạn thảo sách giáo khoa, sách nghiên cứu đã là 1 nhu cầu rất lớn nhằm cung cấp cho thầy cô, sinh viên học sinh và phu huynh.

(http://www.fullerton.edu/nrcal/ by Dr. Natalie Trần)
Hiện, Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ đã có 1 bộ sách giáo khoa 8 cuốn được trên 300 ngôi trường trên Hoa Kỳ dùng dạy trong các lớp học trong cộng đồng Việt Nam vào mỗi cuối tuần. Bộ sách này cũng đang được các thầy cô học khu Westminster và Anaheim sẽ dùng trong các lớp dạy song ngữ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần có thêm những bộ sách giáo khoa khác, bổ túc những ứng dụng phương pháp mới của bộ giáo dục California đề ra, như phương pháp Common Core chẳng hạn.

(Bộ sách Giáo Khoa Việt Ngữ và Lịch Sử Bằng Tranh do Ban Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ Nam CA biên soạn/ hiệu đính và phát hành)
Một nhu cầu khác được đặt ra là các sách tham khảo, sách tài liệu về Chính Tả, Ngữ Vựng, Từ Điển vẫn là 1 chỗ trống, rất thưa thớt, cần được đáp ứng. Tài liệu về Chính Tả chú trọng đến cách viết, cách để dấu cho chính xác, tương tự như tra cứu chữ trong từ điển, nhưng chúng chú trọng nhiều đến những nguyên tắc căn bản của Tiếng Việt, như vị trí đặt những dấu sắc, dấu huyền, dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng, dấu “â”, dấu “ă” trong một chữ, những cách dùng với mẫu tự “y” với “i”; các phụ âm ghép “ch” với “tr”; các phụ âm đầu “s” với “x” v.v… giúp chúng ta viết đúng, nói đúng tiếng Việt.
Việt Nam với trên 96 triệu dân, dùng tiếng Việt là chính. Là tiếng nói có số người dùng nhiều để trao đổi, giao dịch thương mại hằng ngày, đứng hàng thứ 15 trên hơn 100 ngôn ngữ khác trên thế giới. Những đóng góp sự hiểu biết của cộng đồng người Việt trên 3.5 triệu người hải ngoại sẽ góp phần không nhỏ cho sự phát triển ngôn ngữ Việt Nam. Tiếng Việt không còn thuần tuý dành cho con em Việt Nam mà còn đi xa hơn trong việc trao đổi giao dịch, sáng tác, truyền bá văn học nghệ thuật, cung cấp cho nhu cầu sử dụng trên bình diện quốc tế. Chính bởi thế, tiếng Việt cần được sự đồng thuận trên một số căn bản nào đó, mà việc áp dụng quy luật phiên âm quốc tế trong từ điển là một thí dụ.

(Sổ Tay Chính Tả Tiếng Việt gồm 3 tập, do Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt – Nhóm Soạn Từ Điển biên soạn và phát hành)
Đây là 1 nỗ lực rất lớn của Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt Nhóm Thực Hiện Từ Điển, của các đoàn thể, tổ chức văn hoá, của các thầy cô liên quan tới việc giảng dạy Việt Ngữ các nơi, của từ tổ chức Ban Đại Đại Diện Các Trung Tâm Việt Ngữ (TAVIET-LCS), cũng như của các nhà giáo dục, văn hoá, trí thức, truyền thông tại hải ngoại. Hy vọng sự đóng góp có tính cách tổng hợp này sẽ đáp lại nhu cầu cần có, góp phần cho sự phát triển ngôn ngữ trong sáng, thể hiện nét đẹp văn hoá, thêm niềm tự hào tình tự dân tộc, gìn giữ ngôn ngữ, nuôi dưỡng lịch sử oai hùng để mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mọi thế hệ con dân Việt.
Nguyễn Văn Khoa
-The Association of The Vietnamese Language and Culture Schools of Southern California (TAVIET-LCS) Ban Đại Diện các Trung Tâm Viêt Ngữ Nam CA
-Thành Viên Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt
Câu trong huy hiệu lày ý từ bài diễn thuyết của Học gỉa Phạm Quỳnh sau đây:
Bài diễn thuyết bằng quốc văn của ông Phạm Quỳnh
04:12′ CH – Thứ tư, 07/12/2016
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”
(Phạm Quỳnh)
Bài diễn thuyết về Truyện Kiều này được Phạm Quỳnh đọc nhân lễ kỷ niệm ngày giỗ Nguyễn Du vào ngày 8 tháng 12 năm 1924, tức ngày mồng 10 tháng 8 năm Giáp Tý do Hội Khai trí tiến đức của ông tổ chức. Bài được đăng lại tại Tạp chí Nam Phong số 86. Bài diễn thuyết này mở đầu cho một cuộc tranh cãi nổi tiếng vào đầu thế kỷ XX, được người sau mệnh danh là Vụ án truyện Kiều…

Phạm Quỳnh (17 tháng 12 năm 1892 – 6 tháng 9 năm 1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn (Việt Nam). Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp – để viết lý luận, nghiên cứu. Ông có tên hiệu là Thượng Chi, bút danh: Hoa Đường, Hồng Nhân.
Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến
Thưa các Ngài,
Hôm nay là ngày giỗ cụ Tiên-điền Nguyễn Tiên-sinh, là bậc đại-thi-nhân của nước Nam ta, đã làm ra bộ văn-chương tuyệt-tác là truyện Kim-Vân-Kiều.
Ban Văn-học Hội Khai-trí chúng tôi muốn nhân ngày giỗ này đặt một cuộc kỷ-niệm để nhắc lại cho quốc-dân nhớ đến công-nghiệp[1] một người đã gây-dựng cho quốc-âm ta thành văn-chương, để lại cho chúng ta một cái « hương hỏa » rất quí-báu, đời đời làm vẻ-vang cho cả giống-nòi.
Chúng tôi thiết-nghĩ một bậc có công với văn-hóa nước nhà như thế, không phải là ông tổ riêng của một nhà một họ nữa, mà là ông tổ chung của cả nước; ngày giỗ ngài không phải là ngày kỷ-niệm riêng của một nhà một họ nữa, chính là ngày kỷ-niệm chung của cả nước.
Hiện nay suốt quốc-dân ta, trên từ hàng thượng-lưu học-thức, dưới đến kẻ lam-lũ làm ăn, bất-cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết truyện Kiều, ai ai cũng thuộc truyện Kiều, ai ai cũng kể truyện Kiều, ai ai cũng ngâm truyện Kiều, như vậy thời ai ai cũng đều hưởng cái công-nghiệp của Cụ Tiên-điền ta, ai ai cũng phải nhớ ngày giỗ Cụ và nghĩ đến cái ơn của Cụ tác-thành cho tiếng nước nhà.
Muốn cảm cái ơn ấy cho đích-đáng, hẵng thử giả-thiết Cụ Tiên-điền không xuất-thế[2], Cụ Tiên-điền có xuất-thế mà quyển truyện Kiều không xuất-thế, quyển truyện Kiều có xuất-thế mà vì cớ gì không lưu-truyền, thời tình-cảnh tiếng An-Nam đến thế nào, tình-cảnh dân-tộc ta đến thế nào?
Văn-chương người ta thiên kinh vạn quyển, dẫu có thiếu mất một quyển cũng chẳng hại gì. Văn-chương mình chỉ độc có một quyển, vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh-thư[3] Phúc-âm[4] của cả một dân-tộc, ví lại khuyết nốt thì dân-tộc ấy đến thế nào?
Than ôi! mỗi lần nghĩ tới mà không khỏi rùng mình, chột dạ, sửng-sốt, rụng-rời, tưởng như hòn ngọc ở trên tay bỗng rơi xuống vỡ tan-tành vậy. Rồi mới tỉnh ra, sực nhớ đến mấy câu Kiều, vỗ bàn đập ghế, gõ dịp[5] rung đùi, lên giọng cao-ngâm:
Lơ-thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa-mai,
hay là:
Phong-trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm xá gì,
bỗng thấy trong lòng vui-vẻ, trong dạ vững-vàng, muốn nhẩy muốn múa, muốn reo muốn hò, muốn ngạo-nghễ với non sông mà tự-phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!…
Có nghĩ cho xa-xôi, cho thấm-thía, mới hiểu rằng truyện Kiều đối với vận-mệnh nước ta có một cái quí-giá vô-ngần.
Một nước không thể không có quốc-hoa, truyện Kiều là quốc-hoa của ta; một nước không thể không có quốc-túy, truyện Kiều là quốc-túy của ta; một nước không thể không có quốc-hồn, truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều là cái « văn-tự »[6] của giống Việt-Nam ta đã « trước-bạ »[7] với non sông đất nước này. Trong mấy nghìn năm ta chôn rau[8] cắt rốn, gửi thịt gửi xương ở cõi đất này, mà ta vẫn hình như một giống ăn trọ ở nhờ, đối với đất nước non sông vẫn chưa từng có một cái văn-tự văn-khế phân-minh, chứng-nhận cho ta có cái quyền sở-hữu chính-đáng. Mãi đến thế-kỷ mới rồi mới có một đấng quốc-sĩ[9], vì nòi-giống, vì đồng-bào, vì tổ tiên, vì hậu-thế, rỏ máu làm mực, « tá-tả »[10] một thiên văn-khế tuyệt-bút, khiến cho giống An-Nam được công-nhiên[11], nghiễm-nhiên[12], rõ-ràng, đích-đáng làm chủ-nhân-ông một cõi sơn-hà gấm vóc.
Đấng quốc-sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên-điền ta vậy. Thiên văn-khế ấy là gì? Là quyển truyện Kiều ta vậy.
Gẫm trong người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
Báu ấy mà lọt đến tay ta, thật cũng là một cái phúc-duyên cho ta, nhưng báu ấy ở trong tay Cụ lại chính là một cái túc duyên[13] của Cụ. Thiên văn-tự tuyệt-bút kia là gồm bao nhiêu giọt máu, bao nhiêu giọt lệ kết-tinh lại mà thành ra, những khi đêm khuya thanh-vắng vẫn thường tỉ-tê thánh-thót trong lòng ta, như
Giọt sương gieo nặng cành xuân la-đà
vậy.
Cái áng văn-chương tuyệt-tác cho người đời đó, an-tri lại không phải là một thiên lịch-sử thống-thiết của tác-giả?
Truyện Kiều quan-hệ với thân-thế Cụ Tiên-điền thế nào, lát nữa ông Trần Trọng-Kim sẽ diễn-thuyết tường để các ngài nghe.
Nay tôi chỉ muốn biểu-dương cái giá-trị của truyện Kiều đối với văn-hóa nước ta, đối với văn-học thế-giới, để trong buổi kỷ-niệm này đồng-nhân cảm biết cái công-nghiệp của bậc thi-bá nước ta lớn-lao to-tát là dường nào.
Đối với văn-hóa nước nhà, cái địa-vị truyện Kiều đã cao-quí như thế; đối với văn-học thế-giới cái địa-vị truyện Kiều thế nào?
Không thể so-sánh với văn-chương khắp các nước, ta hẵng so-sánh với văn-chương hai nước có liền-tiếp quan-hệ với ta, là văn-chương Tàu và văn-chương Pháp. Văn-chương Tàu thật là mông-mênh bát-ngát, như bể như rừng. Nhưng trong rừng văn bể sách đó, tưởng cũng ít quyển sánh được với truyện Kiều, mà xét cho kỹ có lẽ không có sách nào giống như truyện Kiều. Gốc truyện tuy do một bộ tiểu-thuyết Tàu mà ra, nhưng vào tay Cụ Tiên-điền ta biến-hóa hẳn, siêu-việt ra ngoài cả lề-lối văn-chương Tàu, đột-ngột như một ngọn cô-phong ở giữa đám quần-sơn vạn-hác vậy. Có người sánh truyện Kiều với Li-tao, nhưng Li-tao là một bài than, từ đầu đến cuối toàn một giọng bi-đát thảm-thương, so với Cung-oán của ta có lẽ đúng hơn. Có người lại sánh với Tây-xương, nhưng Tây-xương là một bản hát, từ-điệu có véo-von, thanh-âm có réo-rắt, nhưng chẳng qua là một mớ ca-từ cho bọn con hát, không phải là một nền văn-chương chân-chính. Cứ thực thì truyện Kiều dẫu là đầm-thấm cái tinh-thần của văn-hóa Tàu, dẫu là dung-hòa những tài-liệu của văn-chương Tàu, mà có một cái đặc-sắc văn-chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự « kết-cấu ». Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ bài văn nho-nhỏ ngăn-ngắn, phàm làm sách chỉ biết cách biên-tập, không sành cách kết-cấu. Biên-tập là cóp-nhặt mà đặt liền lại; kết-cấu là thu-xếp mà gây-dựng lên, thế nào cho thành một cái toàn-bức các bộ-phận điều-hòa thích-hợp với nhau, không thêm bớt được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn-bức như thế, mà là một bức tranh thế-thái nhân-tình vẽ sự đời như cái gương tầy liếp vậy.
Xét về cách kết-cấu thì văn-chương nước Pháp lại là sở-trường lắm. Cho nên truyện Kiều có thể sánh với những áng thi-văn kiệt-tác của quí-quốc, như một bài bi-kịch của Racine hay một bài văn tế của Bossuet vậy. Đó là nói về cái thể-tài văn-chương. Còn về đường tinh-thần thời trong văn-học Pháp có hai cái tinh-thần khác nhau, là tinh-thần cổ-điển và tinh-thần lãng-mạn. Tinh-thần cổ-điển là trọng sự lề-lối, sự phép-tắc; tinh-thần lãng-mạn là trong sự khoáng-đãng, sự li-kỳ. Truyện Kiều gồm được cả hai cái tinh-thần ấy, vì vừa có cái đạo-vị thâm-trầm của Phật-học, vừa có cái nghĩa-lý sáng-sủa của Nho-học, vừa có cái phong-thú tiêu-dao của Trang Lão, lấy lẽ phải ông Khổng mà chế lại sự thần-bí của nhà chùa, sự khoáng-dật của hai họ. Nhưng mà ngay trong văn-chương nước Pháp tưởng cũng không có sách nào giống hẳn như truyện Kiều, vì truyện Kiều có một cái đặc-sắc mà những nền kiệt-tác trong văn-chương Pháp không có. Đặc-sắc ấy là sự « phổ-thông ». Phàm đại-văn-chương, không những ở nước Pháp, ở nước nào cũng vậy, chỉ có những người thượng-lưu học-thức mới thưởng-giám được, kẻ bình-dân không biết tới. Người Pháp không phải là ai ai cũng biết đọc kịch Racine hay là đọc văn Bossuet. Người Nam thời ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, « lẩy » Kiều để ứng-dụng trong sự ngôn-ngữ thường, kẻ thông-minh hiểu cách thâm-trầm, kẻ tầm-thường hiểu cách thô-thiển, nhưng ngâm-nga lên thảy đều lấy làm vui tai, sướng miệng, khoái trí, tỉnh hồn.
Thử hỏi cổ kim Đông Tây đã có một áng văn-chương nào cảm người được sâu và được rộng như thế chưa. Tưởng dễ chỉ có một truyện Kiều ta là có thể tự-cao với thế-giới là văn-chương chung của cả một dân-tộc 18,20 triệu người, già, trẻ, lớn, bé, giỏi, dốt, sang, hèn, đều thuộc lòng và đều biết hay cả.
Như vậy thì truyện Kiều, không những đối với văn-hóa nước nhà, mà đối với văn-học thế-giới cũng chiếm được một địa-vị cao-quí.
Văn-chương ta chỉ có một quyển sách mà sách ấy đủ làm cho ta vẻ-vang với thiên-hạ, tưởng cũng là một cái kỳ-công có một trong cõi văn thế-giới vậy.
Cái kỳ-công ấy lại dũ-kỳ nữa là ngẫu-nhiên mà dựng ra, đột-nhiên mà khởi lên, trước không có người khai đường mở lối, sau không có kẻ nối gót theo chân, đột-ngột giữa trời Nam như cái đồng-trụ để tiêu-biểu tinh-hoa của cả một dân-tộc. Phàm văn-chương các nước, cho được gây nên một nền thi-văn kiệt-tác, phải bao nhiêu nhà thơ, bao nhiêu nhà văn, trong bao nhiêu năm lao-công lục-lực, vun-trồng bón-xới mới thành được. Nay bậc thi-bá nước ta, đem cái thiên-tài ít có trong trời đất, đúc cái khí thiêng bàng-bạc trong non sông, một mình làm nên cái thiên-cổ-kỳ-công đó, dẫu khách thế-giới cũng phải bình-tình mà cảm-phục, huống người nước Nam được trực-tiếp hưởng-thụ cái ơn-huệ ấy lại chẳng nên ghi-tạc trong lòng mà thành-tâm thờ-kính hay sao?
Cuộc kỷ-niệm hôm nay là chủ-ý tỏ lòng quốc-dân sùng-bái cảnh-mộ Cụ Tiên-điền ta; lại có các quí-hội-viên Tây và các quí-quan đến dự cuộc là để chứng-kiến cho tấm lòng thành-thực đó. Nhưng còn có một cái ý-nghĩa nữa, là nhân ngày giỗ này, đốt lò hương, so phím đàn, chiêu hồn quốc-sĩ.
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
áng tinh-trung thấp-thoáng dưới bóng đèn, chập-chừng trên ngọn khói, xin chứng-nhận cho lời thề của đồng-nhân đây. Thề rằng: « Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu-sinh xin rầu lòng giốc chí cố gia-công trau-chuốt lấy tiếng quốc-âm nhà, cho quốc-hoa ngày một rực-rỡ, quốc-hồn ngày một tỉnh-tao, quốc-bộ ngày một tấn-tới, quốc-vận ngày một vẻ-vang, ngõ-hầu khỏi phụ cái chi hoài-bão của tiên-sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây! »
Chú thích:
1) công nghiệp: Công lao và sự nghiệp đối với xã hội.
2) xuất thế: ra đời, nói một cách trân trọng.
3) Thánh thư: sách Thánh.
4) Phúc âm: Tin lành.
5) dịp: nhịp.
6) văn tự: giấy tờ do hai bên thỏa thuận ký kết mua bán.
7) trước bạ: đăng ký văn tự với một cơ quan nhà nước để có tính pháp lý.
8) rau: nhau.
9) quốc sĩ: người tài nổi tiếng trong cả nước.
10) tá tả: viết dùm người khác.
11) công nghiên: một cách công khai.
12) nghiễm nhiên: (thực hiện) một cách tự nhiên và đàng hoàng, điều mà trước đó không ai ngờ.
13) túc duyên: duyên sẵn từ kiếp trước.